Bất cập trong báo cáo quyết toán hàng sản xuất xuất khẩu

Thực hiện báo cáo quyết toán đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu tại Hải quan Quảng Ngãi vẫn có những vướng mắc, bất cập, nhất là đối với hàng hóa có tính đặc thù.

Công chức Hải quan Quảng Ngãi giám sát hàng hóa XNK. Ảnh: M.Hùng.

Hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu thuộc đối tượng phải thực hiện việc báo cáo quyết toán hàng năm quy định tại Điều 60 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính. Theo đó, trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính, các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu, vật tư sản xuất hàng xuất khẩu phải thực hiện báo cáo quyết toán số liệu của năm tài chính theo biểu mẫu 15/BCQT-NVL/GSQL phụ lục V kèo theo Thông tư 38/2015/TT-BTC với chi cục hải quan quản lý trực tiếp.

Để thực hiện việc báo cáo quyết toán đối với loại hình nguyên liệu sản xuất xuất khẩu được thống nhất, tại mục 1 Công văn 811/TCHQ-GSQL ngày 14/02/2017, Tổng cục Hải quan có yêu cầu cục hải quan các tỉnh, thành phố triển khai hướng dẫn doanh nghiệp làm thủ tục theo loại hình nhập nguyên liệu sản xuất hàng hóa xuất khẩu thực hiện: “Lập và nộp báo cáo quyết toán theo đúng quy định tại Điều 60 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính và hướng dẫn tại công văn số 1501/TCHQ-GSQL ngày 29/2/2016 của Tổng cục Hải quan. Theo đó, số liệu tồn đầu kỳ, số liệu tồn cuối kỳ được kết xuất từ hệ thống sổ kế toán tại thời điểm bắt đầu và kết thúc năm tài chính (không phân biệt theo thời điểm áp dụng Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu)”; và tại mục 2.2 Công văn số 1501/TCHQ-GSQL ngày 29/2/2016 của Tổng cục Hải quan cũng hướng dẫn: “Trị giá phản ánh trên báo cáo quyết toán là giá gốc của nguyên vật liệu, bao gồm: Giá mua ghi trên hóa đơn (tờ khai hải quan), thuế Nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế Bảo vệ môi trường phải nộp (nếu có), chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản, phân loại, bảo hiểm, ... nguyên vật liệu từ nơi mua về đến kho của doanh nghiệp, công tác phí của cán bộ thu mua, chi phí của bộ phận thu mua độc lập, các chi phí khác liên quan trực tiếp đến việc thu mua nguyên vật liệu và số hao hụt tự nhiên trong định mức (nếu có)”

Tuy nhiên, khi thực hiện báo cáo quyết toán theo các hướng dẫn nói trên, cơ quan Hải quan nhận được phản ánh nhiều tồn tại, vướng mắc của doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình báo cáo quyết toán. Đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp nặng, sản phẩm sản xuất xuất khẩu là sản phẩm có quy mô rất lớn lên đến hàng trăm tấn, to bằng chục tòa nhà cao tầng, trị giá hàng chục triệu USD (như máy lọc nước biển thành nước ngọt, nồi hơi,… của Công TNHH Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam) thì chắc chắn doanh nghiệp không thể hạch toán kho vào tài khoản 155 đối với sản phẩm sản xuất được vì không có kho nào chứa những sản phẩm quy mô như vậy. Về chí phí, quản lý nguyên liệu, vật tư đầu vào thì doanh nghiệp cũng quản lý theo từng dự án sản xuất xuất khẩu nên doanh nghiệp cũng không hạch toán vào tài khoản 152 như việc sản xuất xuất khẩu của các sản phẩm nhỏ khác.

Chẳng hạn, thực tế hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu của Công ty TNHH Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam bao gồm hàng hóa nhập khẩu phục vụ trực tiếp sản xuất cho từng dự án sản xuất xuất khẩu thì doanh nghiệp hạch toán tài khoản 621 và hàng hóa nhập khẩu phục vụ sản xuất dùng chung cho nhiều dự án thì doanh nghiệp hạch toán tài khoản 152. Tài khoản 621 là tài khoản không có số dư cuối kỳ (tồn kho). Do vậy, đối với nguyên liệu nhập khẩu sản xuất xuất khẩu của Công ty này, bộ phận kế toán không thể thực hiện cung cấp số liệu nhập – xuất – tồn theo giá trị gốc nguyên vật liệu để báo cáo quyết toán theo mẫu 15/BCQT-NVL/GSQL phụ lục V kéo theo Thông tư 38/2015/TT-BTC cũng như các yêu cầu của pháp luật hiện hành. Nguyên vật liệu nhập – xuất – tồn sẽ do xưởng và bộ phận xuất nhập khẩu theo dõi theo về số lượng và trị giá trên tờ khai. Về sản phẩm xuất khẩu thì do sản phẩm công nghiệp nặng thường có quy mô rất lớn và được sản xuất qua thời gian dài, có thể nhiều năm nên Công ty cũng không thực hiện quản lý thành phẩm nhập kho mà chỉ thực hiện giao hàng theo tiến độ hoặc ngay sau khi sản xuất xong.

Với đặc thù trên, hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu trong công nghiệp nặng được quản lý theo từng dự án sản xuất xuất khẩu thì việc yêu cầu báo cáo quyết toán theo biểu mẫu 15/BCQT-NVL/GSQL phụ lục V kèo theo Thông tư 38/2015/TT-BTC và các hướng dẫn hiện hành sẽ không thực hiện được, cần có hướng dẫn đặc thù để thực hiện đối với trường hợp này, có thể cho phép doanh nghiệp được báo cáo quyết toán mẫu 15/BCQT-NVL/GSQL nói trên nhưng là theo số lượng từng loại nguyên liệu nhập sản xuất xuất khẩu tương tự như báo cáo quyết toán đối với hàng gia công thay cho báo cáo trị giá gốc của nguyên vật liệu như hướng dẫn hiện hành hoặc trường hợp không cho phép báo cáo theo số lượng thì có thể báo cáo quyết toán theo trị giá trên tờ khai xuất nhập khẩu. Có như vậy mới giải quyết được triệt để vướng mắc trong báo cáo quyết toán đối với loại hình sản xuất xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng một cách thỏa đáng.

Lý Văn Đông (Cục Hải quan Quảng Ngãi)

Nguồn Hải Quan: http://www.baohaiquan.vn/pages/bat-cap-trong-bao-cao-quyet-toan-hang-san-xuat-xuat-khau.aspx