Bờ Rạ – Chuyện xưa còn sót lại ở ATK

Những năm 80, 90 của thế kỷ trước có nhiều đoàn cán bộ các cơ quan, ban ngành Trung ương tìm lại nơi ra đời hay từng đóng quân để lập hồ sơ và ghi dấu di tích, kết hợp tri ân địa phương, cơ sở, lớp người đi trước… Âu đó cũng là lẽ thường, vì thắng Pháp rồi còn lo đi đuổi Mỹ, đằng đẵng mấy chục năm trời, lúc ấy mới có điều kiện tri ân lịch sử. Làm phóng viên Báo Đảng địa phương, chúng tôi hay được nhập vào các đoàn về nguồn, đơn giản vì trách nhiệm và quen thung thổ.

Ảnh tư liệu lớp báo chí Huỳnh Thúc Kháng

Lần lần những dấu ấn và kết quả cứ lướt qua trong tác nghiệp của hành trình tìm về nguồn cội. Câu chuyện tìm mộ nhà báo liệt sỹ Thôi Hữu, ủy viên Ban biên tập báo Sự thật (Nhân Dân) hy sinh năm 1948 và nằm lại ở xã Vô Tranh huyện Phú Lương. Đi lại nhiều lần, cuối cùng cũng tìm ra… rồi tham gia tổ chức đưa tác giả bài thơ nổi tiếng: “Lên Cấm Sơn” về quê nhà yên nghỉ. Câu chuyện tìm về nơi in báo Nhân Dân số đầu vào ngày 11/3/1951 tại bản Khuôn Nhà, xã Quy Kỳ, huyện Định Hóa dễ dàng hơn vì nhân chứng còn nhiều, tìm ra rồi, báo Nhân Dân tổ chức dựng bia, xây lớp học cho các con em của bản, trở thành nơi đi về của báo mỗi kỳ sinh nhật.

Báo Quân đội Nhân dân thành lập ngày 20/10/1950 tại bản Khau Diều, Thanh Định, Định Hóa cũng dễ dàng tìm ra do được ghi chép tỉ mỉ và ngay trong bản có anh Lê Nhâm, cộng tác viên Báo Bắc Thái rất thông tỏ việc này. Câu chuyện tìm về nơi ra đời Hội Những người viết báo Việt Nam ngày 21/4/1950 cũng cực kỳ gian truân… Cuối cùng thì vị trí đồi Khau Quạo, xóm Roòng Khoa, xã Điềm Mặc (Định Hóa) cũng phát lộ bằng sự nỗ lực tìm kiếm của các thế hệ lãnh đạo, nhân viên Hội Nhà báo Việt Nam, Bắc Thái và các cơ quan báo chí. Lang thang khắp các nẻo đường Việt Bắc tìm giúp các anh ở Trung ương, chúng tôi coi đó là vinh dự và trách nhiệm. Anh Nguyễn Mạnh Tuấn (Phó tổng biên tập báo Bắc Thái), tôi Hữu Minh (Trưởng phòng Phóng viên báo), phóng viên Phương Cường (hiện nay là phóng viên báo Nhân Dân)… những năm sau đó anh Phan Sơn (Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Bắc Thái) cũng vào cuộc… Bước sang thế kỷ XXI, tất cả các địa điểm liên quan đến báo chí, phát thanh, văn hóa, văn nghệ, điện ảnh… ra đời hoặc từng ở trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp ở ATK Thái Nguyên đều làm xong, duy chỉ có một địa chỉ xóm Bờ Rạ – nơi tổ chức lớp báo chí cách mạng đầu tiên mang tên Huỳnh Thúc Kháng năm 1949 là để đó.

Bìa cuốn sách Đường tới Bờ Rạ

Sau này khi sang làm Giám đốc Đài PT-TH Thái Nguyên tôi phác thảo kịch bản phim tài liệu 100 tập “Những nẻo đường Việt Bắc”, một công đôi việc, cũng có ý nhằm một lần nữa hướng vào Bờ Rạ. Sau gần 2 năm, 100 tập phim ký sự tài liệu hoàn thành. Những nẻo đường Việt Bắc đã kể lại bằng hình ảnh của 100 điểm nhấn lịch sử của 6 tỉnh Việt Bắc (Thái, Tuyên, Hà, Cao, Bắc, Lạng) xưa. Nhưng anh em Phòng sản xuất phim của Đài vẫn bó tay vì Bờ Rạ, nơi trường đào tạo báo chí HuỳnhThúc Kháng ở Việt Bắc quá ít tư liệu và đặc biệt không tìm ra địa chỉ…

Biết tôi lưu tâm đến Bờ Rạ, một người cháu gửi tặng cuốn “Đường tới Bờ Rạ” của tác giả Andrew Hardy do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản năm 2008. Đọc xong cuốn sách dày 122 trang, hành trình đi tìm về Bờ Rạ là những cuộc di dân thời Pháp lên làm đồn điền và các cuộc di dân làm hồ Núi Cốc những năm 1970. Dù vậy thì cái tên Bờ Rạ đã gây sự chú ý, một phần từ chính các học viên lớp viết báo duy nhất trong kháng chiến chống Pháp này để lại qua các trang viết và câu chuyện kể… Bằng tất cả sự tìm hiểu, cái kết cuối cùng của Andrew Hardy là xóm Bờ Rạ nằm dưới lòng hồ Núi Cốc, mà ở đó có một trường đào tạo báo chí kháng chiến…

Trường mang tên một nhà yêu nước, một nhà báo can trường

Trường đào tạo cán bộ viết báo Huỳnh Thúc Kháng là do Bác Hồ đặt. Bởi đến năm 1949, kháng chiến cần nhiều cán bộ viết báo mà cụ Huỳnh Thúc Kháng đã là cây đa, cây đề của báo chí yêu nước và cách mạng. Cụ sinh cuối năm 1876 ở làng Thanh Bình, Tổng Tiên Giang thượng, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Cụ nổi danh vì đất Quảng Nam thời ấy có tam hùng (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Phạm Liệu). Cụ đỗ đạt cao, không chịu làm quan cho Pháp, phải đi đầy Côn Đảo 13 năm… Ra tù, con đường quan lộ của cụ thật thênh thang nhưng cụ chối bỏ và năm 1927 làm chủ bút tờ Tiếng Dân. Hầu hết các bài xã luận trên tờ báo này đều do cụ viết, kích thích lòng yêu nước của độc giả. Báo chí lúc ấy bị thực dân Pháp kiểm duyệt chặt chẽ, có bài báo cụ bị yêu cầu sửa theo ý người kiểm duyệt, cụ khẳng khái: “Hoặc là cho đăng nguyên văn, hoặc là bỏ, một chữ cũng không sửa”… Bản lĩnh chủ bút ấy của cụ Huỳnh đã làm nên tên tuổi báo chí của cụ. Trong cuộc đời làm báo của mình, cụ Huỳnh xác định: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”…

“Hồn nước từ đây trời mở cửa

Đố ai ngăn đặng ngọn xuân trào”

Hai câu thơ trên được bung ra từ ngòi bút của cụ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm đó cụ Huỳnh cũng đã tròn 70 tuổi… Cụ được Bác Hồ mời tham gia chính phủ Liên hiệp, giữ chức Bộ trưởng Nội vụ và Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau và là Chủ tịch Hội Liên Việt.

Một nhóm học viên của lớp báo chí Huỳnh Thúc Kháng.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, cụ vào Nam Trung Bộ đảm nhiệm chức vụ đại điện chính phủ Trung ương, cụ qua đời do lâm bệnh ngày 21/4/1947 tại Quảng Ngãi. Cụ là chiến sĩ yêu nước nổi tiếng, một nhà báo can trường và nhân ái. “Cụ không muốn danh vị, không cần lợi lộc, không tham làm giàu, không tham làm quan. Cả đời cụ chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập” (lời Hồ Chủ tịch trong thư báo tin lễ Quốc tang khi cụ mất).

Trường cán bộ viết báo Huỳnh Thúc Kháng là lớp đầu tiên và duy nhất dạy làm báo trong kháng chiến ở nước ta. Tuy ngắn hạn, không đông học viên, nhưng nhiều quy mô về nội dung và số cán bộ giảng dạy là những lãnh đạo của cuộc kháng chiến, kinh nghiệm và phong phú lý luận, thực tiễn… Các ông Đỗ Đức Dục, Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh (giám đốc), Xuân Thủy (Phó giám đốc), Như Phong, Đồ Phồn và Tú Mỡ là các ủy viên của ban lãnh đạo. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Tổng bộ Việt Minh đọc diễn văn tại lễ khai mạc 4/4/1949 đã nói: “Lớp mang tên cụ Huỳnh Thúc Kháng bởi ngoài các phẩm chất của người yêu nước, là đức tính căn bản của một ký giả”.

42 học viên học trong 3 tháng được đón 29 giảng viên: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo, Tố Hữu, Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Nam Cao, Thế Lữ, Nguyên Tuân, Quang Đạm …vv, đại điện cho nhiều bộ môn mà người viết báo cần phải trau dồi… Ba tháng nhưng học viên lĩnh hội một chương trình đồ sộ của 3 phần: lý thuyết, chuyên môn và thực hành. Lý thuyết có các bài như: Báo chí là gì? Điều kiện người viết báo. Chuyên môn có: phóng sự, điều tra, phỏng vấn, xã luận, tiểu thuyết, thơ ca, tùy bút, nhạc, kịch, châm biếm, cách loan tin, viết tin, cấu tạo một tờ báo, tổ chức tòa soạn, phát hành, in báo. Thực tế là đi làm tác phẩm và ra báo ở từng tổ. Các giảng viên đến nói ở lớp từng chuyên đề: xã luận (Trường Chinh), viết tin chiến sự trên báo chí như thế nào? (Võ Nguyên Giáp), lên trang (Trần Đình Thọ)v.v…

Bút tích đồng chí Trường Chinh

Ngày 6/7/1949, tại Bờ Rạ, lớp học bế mạc. Bác Hồ gửi thư cho lớp. Bác biểu dương và nhắc 4 điểm chính về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích, đối tượng của mỗi tờ báo, mục tiêu của báo chí và nhấn mạnh: muốn viết báo thì cần: “1 – Gần gũi quần chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực. 2 – Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài và học kinh nghiệm của người. 3 – Khi viết xong một bài báo, tự mình phải xem lại ba, bốn lần, sửa chữa lại cẩn thận. Tốt hơn là đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào họ không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu. 4 – Luôn cố gẵng học hỏi, luôn cầu tiến bộ…”

Lớp báo chí Huỳnh Thúc Kháng là điển hình của cách học tập và truyền đạt sâu, kỹ và nghiêm túc. 42 học viên và 29 giảng viên là những hạt nhân của báo chí cách mạng Việt Nam luôn tỏa sáng và góp phần to lớn để có nền báo chí hôm nay.

Bờ Rạ – Chuyện còn sót lại ở ATK

Như chúng ta đều đã biết, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Nguyên là An toàn khu (ATK) tuyệt mật. Chính vì điều này, ngoài những học viên nhớ được thì rất ít người biết đến, ngay cả các giảng viên cũng được điều động đến giảng độc lập theo chủ đề. Những năm 80, đầu 90 của thế kỷ trước, báo Bắc Thái cũng được đón vài đoàn học viên cũ về nguồn, hầu hết đã lớn tuổi. Điểm đến là xã Tân Thái, huyện Đại Từ chung chung và lãng đãng nhớ về một khúc sông Công cạnh trường dưới tán cây rừng già râm mát mà nay thành hồ Núi Cốc mênh mang.

Bản đồ xã Tân Thái

Trong 100 tập phim ký sự tài liệu “Những nẻo đường Việt Bắc” cũng không thể đưa điểm di tích này thành một tập vì thiếu nhiều yếu tố. Riêng Thái Nguyên có 130 di tích kháng chiến đặc biệt quan trọng, tất cả các cơ quan báo chí, văn nghệ cứu quốc đều ít nhất được cắm bia di tích nay đều thành di tích lịch sử hoành tráng. Còn lớp (trường) báo chí Huỳnh Thúc Kháng ở đâu? Andrew Hardy trong tác phẩm “Đường tới Bờ Rạ” của mình cuối cùng cũng chỉ trong phỏng vấn với một nông dân nói rằng: Bờ Rạ ở lòng hồ Núi Cốc, vậy thôi! Đúng, báo chí chúng tôi đã đến nhưng không kịp. Từ 1975, việc đắp đập dâng nước của hồ Núi Cốc đã bắt đầu, xóm Bờ Rạ chính thức biến mất trên bản đồ xã Tân Thái chính là khi nước dâng lên. Nước dâng lên, xã Tân Thái chỉ còn 11 xóm là Đồng Tiến, Yên Thái, Đồng Đảng, Sơn Đô, Thái Hòa, Dốc Đỏ, Suối Cái, Bãi Bằng, Gốc Mít, Tân Lập, Thổ Hồng… Tài liệu thời kháng chiến cũng đã cung cấp một chi tiết: Trường Báo chí thì ở Bờ Rạ, còn Trường Thiếu sinh quân thì ở xóm Gốc Mít cạnh đó… Nhìn trên bản đồ, hồ Núi Cốc rộng 25 km vuông, 20 triệu mét khối nước này, khi dâng nước lên đã tạo ra 99 hòn đảo. Xã Tân Thái chỉ ngập dọc theo rìa sông Công (bản đồ)….

Vậy là có hy vọng. Chúng tôi đã trở lại nhiều lần để tự nghiên cứu và mô phỏng. Andrew Hardy nói “Thì ra đây là Bờ Rạ, nơi tuyệt đẹp, rợp bóng mát bên bờ sông Công mà đồng nghiệp của tôi ở Hà Nội đã mô tả. Bây giờ ở dưới lòng hồ.”

Khi đi làm phim tài liệu của cả vùng Việt Bắc, hầu hết những nơi đóng quân của các cơ quan đều dựa vào thế núi rậm rạp, hiểm trở. Năm 1949, nơi này có 2 đơn vị đóng là Trường báo chí và Trường thiếu sinh quân, học viên ở các nơi về thường phải đi từ hướng Nam và Đông Nam. Vậy có căn cứ để nói rằng Bờ Rạ phải ở gần một dãy núi… Những người dân được hỏi đều nói rằng, phần cao của xóm Bờ Rạ chính là hòn Đảo Cái ngày nay… Chúng tôi cũng theo nhận định đó và đã làm một vài phóng sự liên quan.

Đoàn Bảo tàng Báo chí Việt Nam đến Đảo Cái ngày 30-8-2016

Tôi đã đưa Trưởng ban quản lý Dự án Bảo tàng Hội Nhà báo Việt Nam Trần Thị Kim Hoa và các cộng sự đi ca-nô ra Đảo Cái ngày 30/8/2016, hy vọng biết đâu đấy, các chị lại chẳng dựng được một tấm bia đá dưới chân hòn đảo với dòng chữ khắc ghi thiên thu: “Nơi đây, xóm Bờ Rạ – ngày 4/4/1949 đã khai giảng lớp viết báo Huỳnh Thúc Kháng, nơi đào tạo cán bộ báo chí cách mạng đầu tiên… Và khắc vào đó toàn văn lời dạy của Bác Hồ gửi lớp học nhân kết thúc khóa 1 ngày 6/7/1949. Được như thế thì có lẽ đó là giáo trình của mọi giáo trình, lý luận của mọi thời đại đối với nghề báo.

Và nếu việc ấy diễn ra thì Bờ Rạ sẽ không còn là một chuyện sót lại của ATK Thái Nguyên, Việt Bắc, đó chính là di tích cách mạng kháng chiến thứ 131 của Thái Nguyên.

Tùy bút của Phan Hữu Minh

Nguồn Công Luận: http://congluan.vn/bo-ra-chuyen-xua-con-sot-lai-o-atk/