Bùi Hoàng Tám và 'Lời thề mùa đông'

Là một trong 15 nhà thơ Việt Nam được giới thiệu trên Prairie Schooner - một tạp chí văn học uy tín của Mỹ với lịch sử gần 100 năm tuổi, Bùi Hoàng Tám còn vinh dự khi “Lời thề mùa đông” của anh vừa được Prairie Schooner bầu chọn là bài thơ tiêu biểu

Là một trong 15 nhà thơ Việt Nam được giới thiệu trên Prairie Schooner - một tạp chí văn học uy tín của Mỹ với lịch sử gần 100 năm tuổi, Bùi Hoàng Tám còn vinh dự khi “Lời thề mùa đông” của anh vừa được Prairie Schooner bầu chọn là bài thơ tiêu biểu. Đây là một sự kiện đáng quan tâm, là tín hiệu vui cho thấy thơ Việt có thể "xuất khẩu" nếu chạm đến trái tim con người. Nhân dịp này, PV CAND có cuộc trò chuyện cùng nhà thơ Bùi Hoàng Tám (BHT):

+ Không chỉ được giới thiệu trên một tạp chí văn chương có uy tín, “Lời thề mùa đông” còn được chọn là bài thơ hay tiêu biểu. Cảm xúc của anh trước sự kiện này?

Nhà thơ BHT: Nếu chọn ba cột mốc trong chặng đường văn chương của mình, tôi cho rằng đây là cột móc thứ ba rất quan trọng. Cột mốc thứ nhất, là khi bài thơ "Trước một trời sao" của tôi được đăng trên Tuyển tập thơ Thái Bình- bài thơ đã đưa tôi, từ một người thợ lao động chân tay chập chững bước vào với văn chương, để rồi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Cột mốc thứ hai là lần đầu tiên tôi được đăng thơ trên Báo Văn nghệ. Ngày đó, ở Thái Bình, số người có bài đăng trên Văn Nghệ đếm trên đầu ngón tay, nhất là Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc thì càng khó. Vì thế, khi ra bưu điện mua Báo Văn Nghệ, đọc lướt qua trang nhất phần giới thiệu nội dung, tôi không tin vào mắt mình khi thấy dòng “Thơ Bùi Hoàng Tám”... Giở trang trong. Giời đất ơi thơ mình. Đúng thơ của mình. Chân tay tôi rủn rủn, mồ hôi lấm tấm lưng tóc gáy hơi giật giật. Hình như khi đó để trấn tĩnh mình tôi lẩm bẩm hát "Tổ quốc ơi ta yêu người mãi mãi" Hay "Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay"... Đại loại thế. Sẵn có 10.000 ngàn trong túi tôi mua tất cả 5 tờ Văn nghệ. Rồi lặng lẽ leo lên gác xép để nhấm nháp niềm hạnh phúc. Đêm đó tôi trằn trọc thỉnh thoảng lại sờ tay xuống gối xem thật hay mơ.

Lần này thì niềm vui còn lớn hơn bởi thơ tôi đã "vượt biên". Tất nhiên, ở tuổi này, tôi điềm tĩnh hơn nhưng niềm vui thì không giảm. Thành thật, tôi rất, rất hạnh phúc. Song, tôi cũng hiểu rằng để có được niềm vui này là nhờ công lao của các nhà dịch thuật. Dịch văn xuôi dã khó, dịch thơ còn khó hơn nhiều và dịch thơ lục bát thì tôi nghĩ vô cùng khó.

+ “Lời thề mùa đông” là bài thơ viết về sự khốc liệt của chiến tranh ở nơi không có tiếng súng...?

Nhà thơ BHT: Một nhận xét chính xác! Chiến trường máu lửa đương nhiên là khốc liệt vì người lính -tôi cũng từng là người lính- có thể sống, có thể chết, hoặc có thể bị thương. Song sự khốc liệt của chiến tranh còn ở hậu phương, nơi đầu ngõ những bà mẹ chờ con, nơi bậu cửa những đứa trẻ chờ cha và trong chiếc giường cưới, những người vợ trằn trọc đợi chồng. Trong đó, có người đã có con, có người được làm vợ và có những người chỉ cầm trên tay hai từ "đợi anh" rồi để suốt quãng đời còn lại sống trong nỗi cô đơn phấp phỏng đợi chờ.

+ Và đó chính là hình tượng người cô trong “Lời thề mùa đông”?

Nhà thơ BHT: Thật ra, bài thơ này tôi viết cho cô tôi, cho chị tôi và cho những người phụ nữ làng tôi. Trong đó, mỗi người "góp" một chút.

+ Nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai cũng là người chuyển ngữ bài thơ, đã nhận xét: Bài thơ ngắn nhưng bao hàm sự mênh mông của truyền thuyết và tục ngữ Việt Nam. Anh nghĩ sao về nhận xét này?

Nhà thơ BHT: Tôi nghĩ nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai không chỉ đúng mà còn... rất đúng. Quế Mai phải hiểu sâu sắc và đồng cảm với tôi thì mới có thể chuyển ngữ thành công như vậy được.

Tại cuộc thi Thơ hay của Báo Văn nghệ TP HCM năm 1992- 1993, tôi có bài "Một lời với núi vọng phu" lọt vào vòng chung khảo. Ở đó tôi có nói với nàng Tô Thị rằng nàng nên về nuôi dạy cái. Người ra đi không thể về được nữa. Song, lời cuối cùng tôi đặt câu hỏi "Em hóa đá vì người, con hóa đá vì ai?". Bởi tôi nghĩ nàng có thể hóa đá vì tìnhh yêu và lòng chung thủy, nhưng em bé thì không có bổn phận và nghĩa vụ đó. Em phải được ăn, được học và phải được sống…

+ Trong “Lời thề mùa đông”, anh một lần nữa nhắc đến biểu tượng vọng phu...

Nhà thơ BHT: Nếu "Một lời với núi vọng phu" là sự trách móc thì ở “Lời thề mùa đông”, tôi thấy nàng rất “bình thường”, bởi ở đất nước triền miên những cuộc chiến tranh này, những người phụ nữ chờ chồng không hiếm. Nếu chỉ chờ chồng mà hóa đá, tôi tin đất nước này không chỉ có hàng ngàn, mà hàng vạn nàng Vọng phu. Vả lại, dù đá có nỗi đau của đá và nàng chờ chồng 3 năm rồi còn được hóa đá và cũng "còn đợi bước thiên di", thì còn biết bao phụ nữ Việt Nam cho đến tận hôm nay vẫn khắc khoải chờ chồng trong tuyệt vọng. Họ không thể hóa đá mà vẫn phải sống một kiếp người, đó mới là nỗi đau khủng khiếp.

Rồi nàng Vọng phu “còn con để bế”. Tôi viết câu này bởi có lần được tận mắt chứng kiến cuộc trò chuyện của hai người phụ nữ. Một chị than thở về chuyện suốt ngày chăm con vất vả, hết đái lại ị... đại loại thế. Bỗng nghe chị kia buông tiếng thở dài: “Cô còn có con nó đái vào cho mà giặt chứ tôi thì...” rồi chị òa khóc. Đó là vợ một liệt sĩ. Vâng, sự hi sinh của những người phụ nữ trong các cuộc chiến thật kinh khủng.

+ Từng là người lính, đề tài chiến tranh có làm anh quan tâm?

Nhà thơ BHT: Tôi từng hai lần nhập ngũ nhưng thật tình, không có nhiều tác phẩm viết về chiến tranh. Tôi mới chỉ có 2 bài thơ viết về đề tài này, là “Lời thề mùa đông” và một bài thơ văn xuôi in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nếu “Lời thề mùa đông” là tác phẩm viết về chiến tranh không khói súng thì ngược lại, bài thơ Ngày 1 tháng 10 năm 1967 có thể nói là đầy máu và nước mắt. Đau xót thay, đó lại là những hình ảnh hoàn toàn là sự thật, xảy ra trong gia đình tôi. Hôm đó, máy bay Mỹ ném bom vào làng và đã có 154 người dân bị sát hại, trong đó có 2 đứa em gái tôi, mới 4 tuổi và 7 tuổi. Quả bom nổ ngay sát cạnh làm thi thể hai em không còn một mảnh vẹn nguyên. Sát nhà ngoại tôi có người mẹ buổi sáng đi làm đồng, lúc trở về thì cả nhà, người chồng và 6 đứa con thơ không còn ai nữa. Từ đó, bà bỏ lên Hà Nội bán gạo ở chợ Hàng Da, mỗi năm ngày giỗ trận (làng tôi lấy ngày 1-10 là ngày giỗ trận), bà lại trở về và 50 năm qua, cứ chưa về đến đầu làng bà đã khóc.

+ Sau cuộc "vượt đại dương" thành công, anh có "nuôi mộng" sẽ làm những bài thơ khác để tiếp tục "mang chuông đi đấm nước người"?

Nhà thơ BHT: Chẳng ai muốn "gà què ăn quẩn cối xay" hay "trâu ta ăn cỏ đồng ta". Tuy nhiên, để văn chương ra được với nước ngoài là rất khó bởi rào cản ngôn ngữ. Cho nên một lần nữa, xin cảm ơn nhà thơ/giáo sư Kwame Dawes (chủ bút của tạp chí Prairie Schooner), nhà thơ Thiếu Khanh và nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai, đã chọn và chung tay chuyển ngữ bài thơ này. Còn về văn chương, tôi nghĩ không nên và cũng không thể cố. Văn chương như tình yêu vậy, cái gì đến, sẽ đến đầy bất ngờ và ngẫu hứng. Thôi thì đành chấp nhận hai từ "nhờ giời" …

+ Cảm ơn anh!

Nguồn: Thanh Hằng/cand.vn

Nguồn Infonet: http://infonet.vn/prairie-schooner-chon-loi-the-mua-dong-cua-bui-hoang-tam-la-bai-tho-tieu-bieu-post224081.info