Đường đua vào Nhà Trắng (K1): Dai dẳng

Tổng thống Hoa Kỳ được xem là vị trí quyền lực nhất hành tinh khi nắm trong tay hệ thống sức mạnh quân sự lớn nhất trên thế giới, cũng như nền kinh tế số 1 trái đất. Vì thế, việc chạy đua vào Nhà Trắng luôn là những cuộc đua cam go và đầy kịch tính, mà đôi khi kết quả của nó vẫn còn gây tranh cãi trong hàng chục năm sau đó.

Trong lịch sử bầu cử của Hoa Kỳ, có lẽ cuộc bầu cử tổng thống năm 1800 và cuộc bầu cử năm 2000 là những cuộc bầu cử dai dẳng nhất, bởi kết quả không được đưa ra ngay sau bầu cử, mà phải chờ hàng tháng trời sau đó.

36 cuộc bỏ phiếu

Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1800 kéo dài từ ngày 31-10 đến 3-12. Đó là cuộc đua vào Nhà Trắng của Phó Tổng thống Thomas Jefferson (đảng Liên bang - FP) và Tổng thống John Adams (đảng Dân chủ - Cộng hòa). Tuy nhiên, điều đáng nói không phải là cuộc chiến giữa Jefferson và Adams, mà giữa Jefferson và người được ông chọn để làm phó tổng thống cho mình - ông Aaron Burr.

Cuộc bầu chọn gắt gao giữa Jefferson và Burr tại cử tri đoàn đã cho thấy những vấn đề trong hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ khi đã không dự đoán được khả năng xảy ra trường hợp như vậy. Năm 1804 Hoa Kỳ đã phải sửa đổi Hiến pháp, với việc quy định tách riêng các cuộc bầu tổng thống và phó tổng thống nhằm tránh những trường hợp tương tự.

Khi đó, luật quy định mỗi đại cử tri có thể bầu tới 2 phiếu, người nào có số phiếu cao nhất sẽ thành tổng thống, người về nhì sẽ làm phó tổng thống. Vì Hiến pháp Hoa Kỳ khi đó không phân biệt giữa tổng thống và phó tổng thống trong phiếu bầu đại cử tri trong các cử tri đoàn của từng bang, nên ông Jefferson và người ông lựa chọn làm cấp phó của mình khi thắng cử là Aaron Burr đều giành được 73 phiếu bầu, còn ông Adams được 65 phiếu.

Như vậy, theo Điều II, Mục 1 của Hiến pháp, khi 2 ứng viên đều nhận được đa số phiếu bầu nhưng lại có quan hệ với nhau, Hạ viện phải quyết định ai sẽ trở thành tổng thống thông qua việc bỏ phiếu kín tại từng tiểu bang. Lúc đó Hoa Kỳ có 16 tiểu bang, vì vậy 1 trong 2 ứng viên cần chiến thắng tại ít nhất 9 tiểu bang để giành chiến thắng. Hạ viện khi đó đang được kiểm soát bởi FP, và ai cũng biết rằng Jefferson mới là ứng cử viên tổng thống cho đảng này, còn Burr được chọn để làm phó tổng thống. Tuy nhiên, nhiều đảng viên FP không ủng hộ Jefferson, đã bỏ phiếu cho Burr, giúp Burr giành chiến thắng tại 6/8 tiểu bang do FP kiểm soát. Trong khi đó, tất cả 7 tiểu bang do đảng Dân chủ - Cộng hòa kiểm soát đều bỏ phiếu cho Jefferson, và đại diện FP duy nhất của Gruzia cũng bình chọn cho Jefferson, giúp ông chiến thắng ở 8 tiểu bang. Bang Vermont có số lượng đại cử tri FP và Dân chủ - Cộng hòa tương đương nhau, nên đã bỏ phiếu trắng. Tiểu bang còn lại, Maryland, có 5 đại diện FP và 3 đại diện Dân chủ - Cộng hòa, nhưng 1 trong 5 đại diện FP bỏ phiếu cho Jefferson, nên cử tri đoàn bang này cũng bỏ phiếu trắng.

Trong suốt 7 ngày, từ ngày 11 đến 17-2, Hạ viện đã tiến hành tới 35 cuộc bỏ phiếu và Jefferson giành chiến thắng ở 8 bang, vẫn còn thiếu 1 bang để tuyên bố chiến thắng. Đến ngày 17-2, trong cuộc bỏ phiếu thứ 36, nhiều đảng viên FP bỏ phiếu trắng, dẫn đến việc Jefferson giành chiến thắng ở 10 tiểu bang và tuyên bố chiến thắng, kết thúc cuộc bầu cử tổng thống dai dẳng nhất lịch sử Hoa Kỳ.

Tình trạng giằng co của cuộc bầu cử năm 2000
được phản ảnh trên trang bìa hầu hết các tờ báo.

Chỉ tại máy bầu?

Cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000 cũng là một sự kiện không thể quên khi ứng cử viên của đảng Dân chủ Al Gore tưởng chừng đã đánh bại tổng thống đương nhiệm đảng Cộng hòa George W. Bush khi tính về số phiếu phổ thông. Theo đó, ông Gore nhiều hơn ông Bush tới 543.895 phiếu phổ thông. Tuy nhiên, số phiếu đại cử tri của các cử tri đoàn lại quá sít sao và gây tranh cãi, cho đến đêm cuối của ngày bầu cử, các bang New Mexico, Oregon và Florida vẫn chưa có kết quả. Sau đó, người ta phát hiện ra kết quả cuối cùng phụ thuộc vào số phiếu bầu của bang Florida. Tại bang miền Nam này, tình hình rất khó đoán định do những lá phiếu được kiểm từ các máy kiểm phiếu (dùng phương pháp đục lỗ phiếu bầu để kiểm phiếu) hầu như không cho phép xác định một kết cục rõ ràng. Ngay trong đêm bầu cử, các mạng lưới tin tức đưa tin thắng lợi của Gore tại Florida, rồi cải chính, rồi gọi Bush là người chiến thắng, rồi lại cải chính.

Cuối cùng, cuộc đua được quyết định bởi 537 phiếu cách biệt tại Florida để toàn bộ 25 phiếu cử tri đoàn của tiểu bang dành cho Bush. Gore thừa nhận thất bại sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ phán quyết trong vụ Bush và Gore rằng việc tái kiểm phiếu tại Florida là vi hiến. Như vậy, Gore là ứng cử viên thứ 3 trong lịch sử Hoa Kỳ giành được đa số phiếu phổ thông (khoảng nửa triệu phiếu nhiều hơn đối thủ) nhưng lại thua số phiếu của cử tri đoàn. Gore có 266 phiếu cử tri đoàn so với 271 phiếu dành cho Bush.

Tuy nhiên, những tranh cãi sau đó cho rằng nếu tòa án không can thiệp mà để kiểm phiếu lại ở bang Florida, chiến thắng đã thuộc về ông Gore. Một cuộc điều tra các lá phiếu không được tính trong cuộc bầu cử Tổng thống ở Florida năm 2000 do 8 hãng thông tấn Hoa Kỳ phối hợp tiến hành, cho thấy George W. Bush sẽ thắng sát nút nếu chỉ tái kiểm phiếu một phần theo yêu cầu của ông Gore, nhưng ông Gore sẽ đảo ngược được kết quả này, bằng chênh lệch hết sức sít sao, nếu người ta kiểm tra lại trên toàn bang. Cụ thể, các hãng tin đã tiến hành kiểm tra các lá phiếu không được tính, tổng cộng khoảng 175.000 phiếu. Ngoài ra, cuộc điều tra còn tiến hành xem xét các lá phiếu bị coi là không đúng tiêu chuẩn, chẳng hạn có dấu X thay vì dấu hình bầu dục. Nếu chỉ tiến hành 2 cuộc kiểm tra, theo như yêu cầu của ông Gore với tòa án, Bush vẫn dẫn trước với khoảng 225-493 phiếu chênh lệch. Còn nếu tiến hành đếm lại tất cả phiếu gây tranh cãi trên toàn bang Florida, ông Gore sẽ vượt lên trước với chênh lệch vẻn vẹn 42-171 phiếu. Như vậy, tất cả kết quả này còn sít sao hơn nhiều so với chiến thắng chính thức 537 phiếu của ông Bush.

(còn tiếp)

Hồng Định

Nguồn SGĐT: http://www.saigondautu.com.vn/pages/20160907/ky-1-dai-dang.aspx