Hạn mức đất ở từ năm 2000

Tôi xin trình bày với quý cơ quan một việc như sau: Ngày 16/9/1999, gia đình tôi được Sở Địa chính tỉnh Trích lục bản đồ địa chính khu đất. Theo đó, thống kê loại đất “T” có diện tích là 239,9 m2 (xác định hiện trạng sử dụng đất của tôi đo đạc năm 1995 chưa gắn quy hoạch chi tiết của khu vực). Ngày 25/5/2000, được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Theo đó, diện tích đất ở là 150,16m2.

Vậy, giữa việc xác định diện tích hiện trạng sử dụng đất của tôi đo đạc năm 1995 và diện tích đất ở được cấp năm 2000 chênh lệch giảm 89,74m2 (239,9 - 150,16 = 89,74) trên cùng một Thửa đất.

Xin Chuyên mục Tư vấn pháp luật Báo điện tử Tài nguyên & Môi trường tư vấn giúp:

1. Phải thực hiện những điều kiện gì để được cấp diện tích chênh lệch còn lại để đủ diện tích là 239,9 m2

2. Tại thời điểm năm 2000, hạn mức đất ở được quy định tại văn bản nào nếu địa phương chưa có quy định (dvcbk1@yahoo.com.vn).

Trả lời

Câu hỏi của bạn Báo Tài nguyên & Môi trường xin tư vấn như sau:

Thứ nhất: Trong thư gửi Tòa soạn bạn không nói rõ tại sao khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn UBND tỉnh lại chỉ công nhận phần diện tích đất ở là 150,16m2? Tại sao lại không công nhận 89,74 m2 đất còn lại nên Tòa soạn không thể kết luận được là quyết định này là đúng hay sai.

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật vẫn có những quy định về cấp hoặc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân khi có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy chứng nhận. Cụ thể, Khoản 5 Điều 98 Luật đất đai 2013 quy định: "Trường hợp có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này hoặc Giấy chứng nhận đã cấp mà ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề thì khi cấp hoặc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích đất được xác định theo số liệu đo đạc thực tế. Người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch nhiều hơn nếu có.

Trường hợp đo đạc lại mà ranh giới thửa đất có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất và diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì phần diện tích chênh lệch nhiều hơn (nếu có) được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Điều 99 của Luật này."

Bạn hãy dựa vào các quy định này để quyết định xem có tiến hành thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với trường hợp có sự chênh lệch về diện tích đất thực tế và diện tích đất trên sổ đỏ hay không.

Thứ hai: Tại thời điểm năm 2000, hạn mức đất ở được quy định tại văn bản nào nếu địa phương chưa có quy định?

Tại thời điểm năm 2000, hạn mức đất ở được quy định chung tại Nghị định số 04/2000/NĐ-CP về thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai. Theo Điều 6 Nghị định này: “1.Đất ở của hộ gia đình, cá nhân là đất để xây dựng nhà ở và các công trình phụcvụ sinh hoạt như bếp, sân, giếng nước, nhà tắm, nhà vệ sinh, lối đi, chuồngchăn nuôi gia súc, gia cầm, nhà kho, nơi để thức ăn gia súc, gia cầm, nơi đểchất đốt, nơi để ôtô.

2.Hạn mức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở

a) Hạn mức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở tại nông thôn. Căn cứ vào quỹ đất của địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức đất giao chomỗi hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở theo quy định như sau: Các xã đồng bằng không quá 300m2; Các xã trung du, miền núi, hải đảo không quá 400m2; Đối với những nơi có tập quán nhiều thế hệ cùng chung sống trong một hộ hoặc cóđiều kiện tự nhiên đặc biệt, thì mức đất ở có thể cao hơn, nhưng tối đa không vượtquá hai lần mức quy định đối với vùng đó.

b) Hạn mức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở tại đô thị thực hiện theodự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê được cơ quan nhà nước có thẩmquyền phê duyệt.

Trong trường hợp chưa có đủ điều kiện để giao đất theo dự án, thì Uỷ ban nhân dân cấptỉnh căn cứ vào quỹ đất của địa phương để quy định mức giao cho mỗi hộ giađình, cá nhân tự xây dựng nhà ở theo đúng quy hoạch đô thị và tiêu chuẩn quyphạm thiết kế quy hoạch xây dựng đô thị.

3.Hạn mức giao đất quy định tại khoản 2 Điều này chỉ áp dụng cho những trường hợpgiao đất mới để làm nhà ở, không áp dụng cho những trường hợp đang sử dụng đấtở có trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành”.

Báo TN&MT

Nguồn TNMT: http://baotainguyenmoitruong.vn/tu-van-phap-luat/201709/han-muc-dat-o-tu-nam-2000-2842852/