Không để trí tuệ và nền khoa học Việt Nam thua kém trên sân nhà

Năm 2016, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam (HLKH và CNVN) công bố hơn 2.000 công trình khoa học, trong đó có hơn 740 công trình được đăng trên các tạp chí quốc tế đạt chuẩn ISI. Đồng thời, Viện có 11 phát minh sáng chế và 17 giải pháp hữu ích. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ (KH - CN) của Viện, như đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, còn nặng về lý thuyết, thiếu gắn bó thực tiễn; phải phấn đấu không để nền khoa học Việt Nam thua kém trên sân nhà…

Năm 2016, Viện HLKH và CNVN triển khai thực hiện hơn 430 nhiệm vụ, đề tài, dự án KH - CN các cấp khác nhau. Bên cạnh thường xuyên thực hiện số lượng đề tài do Quỹ phát triển KH - CN quốc gia (NAFOSTED) phê duyệt nhiều nhất cả nước (mỗi năm hơn 50 đề tài), Viện HLKH và CNVN cũng triển khai, thực hiện hàng chục dự án ODA và dự án NGO với nguồn kinh phí nhiều trăm tỷ đồng. Là trung tâm KH - CN lớn nhất cả nước, 5 năm trở lại đây, Viện triển khai, thực hiện nhiều loại đề tài và nhiệm vụ như đề tài độc lập cấp quốc gia, đề tài nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, Chương trình KH - CN vũ trụ, Chương trình KC, Chương trình Tây Nguyên 3, Dự án điều tra cơ bản, Dự án trọng điểm cấp Viện Hàn lâm, Chương trình KH - CN trọng điểm giao các bộ, ngành…

Nghiên cứu cơ bản là một thế mạnh của Viện HLKH và CNVN. Cùng với các đề tài thường niên của Quỹ NAFOSTED, các đơn vị nghiên cứu thuộc Viện hàng năm triển khai, thực hiện hàng trăm đề tài nghiên cứu cơ bản theo các lĩnh vực toán học, vật lý, hóa học, cơ học, khoa học thông tin và máy tính, khoa học sự sống… Cho nên những năm gần đây, như các năm 2014, 2015 và 2016, số bài báo được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín (đạt chuẩn ISI) tăng 12% trở lên. Riêng năm 2016, toàn Viện có 742 công trình được công bố trên các tạp chí đạt chuẩn ISI (tăng 26% năm 2015). Đáng chú ý, một số nhà khoa học của Viện thời gian qua có các công trình khoa học được công bố trên các tạp chí có chỉ số ảnh hưởng cao (IF) như GS.TSKH Ngô Việt Trung (toán học), GS Trần Đức Thiệp, PGS Nguyễn Bá Ân (vật lý), GS Nguyễn Đông Yên và GS trẻ Phạm Hoàng Hiệp (toán học) đã dành được các Giải thưởng Nhân tài đất Việt và Giải thưởng Tạ Quang Bửu.

Đặc biệt, tổ chức UNESCO đã chấp thuận thành lập và bảo trợ hai Trung tâm Toán học và Vật lý thuộc Viện HLKH và CNVN. Cũng trong năm 2016, các đơn vị thuộc Viện đã thực hiện 1.070 hợp đồng KH - CN với các bộ, ngành và địa phương (tổng kinh phí 233 tỷ đồng); chuyển giao chín công nghệ vào sản xuất và đời sống…

Tuy nhiên, với một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, bao gồm hơn 4.000 cán bộ, công chức; trong đó có hơn 220 GS và PGS, 840 TSKH và TS, và hàng chục trường hợp được phong Viện sĩ nước ngoài thì những kết quả nghiên cứu thời gian qua của Viện HLKH và CNVN chưa tương xứng với tiềm năng của Viện. Mấy năm gần đây, số lượng công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế có uy tín của Viện tuy có tăng nhưng chỉ bằng một phần nhỏ của một trường đại học ở Trung Quốc hay Thái-lan. Ngay chương trình trọng điểm Tây Nguyên 3 thực hiện trong hơn 5 năm (2011 - 2016) với 65 đề tài, nhiệm vụ nhưng đến nay, số hồ sơ độc quyền sáng chế và giải pháp hữu ích được đăng ký cũng rất khiêm tốn. Không ít đề tài nghiên cứu của cán bộ thuộc Viện thiếu tính thực tiễn, một bộ phận nhỏ nhà khoa học tự thỏa mãn với cái mình đã có… nên chưa có những sản phẩm mang hàm lượng KH và CN cao, ảnh hưởng tác động lớn tới nền kinh tế - xã hội đất nước…

Bởi vậy, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nhân dự lễ Tổng kết hoạt động năm 2016 của Viện HLKH và CNVN (cuối tháng 12 vừa qua) đã chỉ rõ, đội ngũ GS, TS của Viện đông nhưng các kết quả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng còn khiêm tốn, kể cả tư vấn chính sách. Có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân quan trọng là khá nhiều đề tài nghiên cứu còn nặng về lý thuyết, không gắn với thực tế, không đáp ứng yêu cầu thực tế thì tự mình thua trên sân nhà…

Người đứng đầu Chính phủ cũng đề nghị, Viện HLKH và CNVN và Viện HLKHXH Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ, có sự tương tác và hỗ trợ nhau để cùng phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc diễn ra trên mọi miền đất nước.

Với mong muốn "Không để trí tuệ và nền khoa học Việt Nam thua kém trên sân nhà, để từ đó chúng ta có thể hội nhập vào chuỗi giá trị tri thức toàn cầu một cách chủ động"; thiết thực phục vụ sản xuất và kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra bốn yêu cầu đối với Viện HLKH và CNVN trong thời gian tới.

Đó là, song song với nghiên cứu cơ bản, cần dành thời gian, nguồn lực thỏa đáng để nghiên cứu áp dụng các thành tựu KH và CN vào thực tiễn; phải tạo mối liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH và CN với sản xuất, kinh doanh và khởi nghiệp; đồng thời, giảm dần tình trạng các doanh nghiệp trong nước đang bỏ ra chi phí lớn thuê các đơn vị tư vấn KH và CN nước ngoài mỗi khi cần cải tiến hoặc sản xuất thiết bị, phụ tùng. KH và CN đã được Đảng, Nhà nước xác định là nền tảng, động lực phát triển đất nước. Nhưng đến nay, vai trò đó chưa được phát huy đúng với tiềm năng của người Việt Nam. Làm sao thực hiện tốt chủ trương này, hướng đi ra sao, đầu tư như thế nào? Những điều này đòi hỏi Viện phải tiến hành các nghiên cứu định tính và định lượng, xây dựng đề xuất thích hợp với Chính phủ. Về đào tạo, Viện phải không ngừng nỗ lực để khẳng định chất lượng đào tạo trong bối cảnh KH và CN đang tác động nhanh chóng, mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

Mặt khác, Thủ tướng Chính phủ cũng "đặt hàng" Viện HLKH và CNVN 5 đề tài nghiên cứu cụ thể, quan trọng và cấp thiết:

Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý nhằm nâng cao giá trị, giảm lãng phí đất đai và tài nguyên quốc gia;

Đề xuất các giải pháp KH và CN trong việc theo dõi, kiểm soát và xử lý môi trường, cũng như khắc phục hậu quả và thích ứng tối ưu trước các thách thức của biến đổi khi hậu;

Nghiên cứu áp dụng KH và CN trong việc sản xuất hàng hóa, chú trọng yếu tố thân thiện môi trường, phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam; giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất trong nước;

Áp dụng KH và CN vào chế biến sâu, bảo quản lương thực, thực phẩm; mở rộng chuỗi giá trị gia tăng cho nông sản Việt Nam, nâng cấp vị thế của nền nông nghiệp Việt Nam ở nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu;

Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành, lĩnh vực then chốt của quốc gia, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, sản xuất các dược liệu thế hệ mới…

Để đạt được những yêu cầu trên, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu quyết liệt của đội ngũ cán bộ, nhà khoa học ở 33 đơn vị nghiên cứu và hàng chục đầu mối khác thuộc Viện HLKH và CNVN - nơi được coi là Trung tâm KH và CN hàng đầu của cả nước.

Ban Chủ nhiệm Chương trình Tây Nguyên 3 bàn giao các kết quả nghiên cứu cho Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.

Nguồn Nhân Dân: http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/31744702-khong-de-tri-tue-va-nen-khoa-hoc-viet-nam-thua-kem-tren-san-nha.html