Thế hệ vàng hội họa Việt Nam

(ĐTTCO) - Lương Xuân Nhị là một họa sĩ bậc thầy, thuộc thế hệ vàng khai sinh nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ 20. Ông đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ tài năng cho đất nước, được Nhà nước phong hàm Phó Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân và tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt đầu tiên năm 2001.

Sớm gặt hái nhiều thành công

Lương Xuân Nhị sinh ngày 10-4-1914 tại Hà Nội. Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông sớm bộc lộ năng khiếu hội họa. Nhờ gia đình có cửa hàng bán bột màu và các thứ dụng cụ mỹ thuật nên từ nhỏ ông rất say mê tập vẽ. Hình ảnh thân thuộc của cuộc sống gia đình, của phố xá cổ kính, của những cô bạn gái cùng tuổi đất Thăng Long đã đi vào những bức tranh tuổi thơ ngô nghê của ông.

Lương Xuân Nhị thi đỗ thủ khoa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 7 (1932-1937). Sớm gặt hái nhiều thành công, từ lúc còn đang học ông đã giành các giải Bạc (1935), Vàng (1936) và Ngoại hạng - Giải thưởng danh dự (1937) tại các cuộc triển lãm của Hội Khuyến khích kỹ thuật và công nghệ Đông Dương (SADEAL). Năm 1938, tác phẩm lụa Quán nước bên đường của ông được Viện Bảo tàng World Headquarters New York sưu tầm.

Vào năm 1939, một số họa sĩ trẻ cùng chí hướng đã đứng ra thành lập nhóm FARTA (Nhóm Nghệ thuật An Nam), nhằm tìm con đường tự do sáng tạo cho riêng mình và tự tôn giá trị văn hóa dân tộc. Nhóm FARTA gồm các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ…

Thời gian đầu, do khó khăn về tài chính, các họa sĩ phải thuê chung một người mẫu để vẽ, đó là cô Sáu, người đẹp Hà thành xuất hiện khá đậm nét trong tranh của Lương Xuân Nhị, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… Dù vậy nhóm cũng đã tổ chức được 2 cuộc triển lãm tranh gây tiếng vang lớn trong giới mỹ thuật. Riêng Lương Xuân Nhị, năm 1942, nhân dịp sang Nhật Bản tham gia triển lãm, ông đã vẽ khá nhiều tác phẩm về thiếu nữ, phong cảnh xứ Phù Tang, được đánh giá cao về bút pháp, sắc màu, bố cục.

Nhìn lại hơn thế kỷ qua, giới nghiên cứu cho rằng lịch sử nền mỹ thuật Việt Nam khó lặp lại như đầu thế kỷ 20 khi cùng lúc sản sinh thế hệ họa sĩ tài danh khá đông đảo. Phần lớn thế hệ vàng mỹ thuật ấy xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội, như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Cát Tường, Nam Sơn, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Diệp Minh Châu, Lê Văn Đệ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Đỗ Cung, Bùi Trang Chước, Vũ Cao Đàm, Huỳnh Văn Gấm, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Đình Phúc… và tất nhiên không thể quên Lương Xuân Nhị.

Đồi cọ (sơn dầu, 1955).

Họa sĩ của phong cảnh và phái đẹp

Trong sự nghiệp hội họa của Lương Xuân Nhị, phong cảnh và thiếu nữ là 2 nguồn cảm hứng chủ đạo. Tình yêu thiên nhiên đất nước đã sớm mang lại cho ông nhiều bức tranh phong cảnh có giá trị. Đi đến đâu, ông cũng phác họa để rồi dần hình thành các tác phẩm vừa mang vẻ đẹp non nước Lạc Hồng lại vừa mang dấu ấn lịch sử hiện đại.

Khi dấn thân vào cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, Lương Xuân Nhị đã hướng cây cọ của mình vào phục vụ thiết thực cuộc sống sôi động ở chiến khu. Ông vẽ nhiều tranh tuyên truyền địch vận và nhiều tranh phong cảnh. Ông còn tham gia công tác lãnh đạo trên cương vị Tổng thư ký Chi hội Văn nghệ Liên khu 3. Từ năm 1955-1981, ông là giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Ông cũng được mời làm thành viên Hội đồng Nghệ thuật xét chọn Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước cấp quốc gia.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Lương Xuân Nhị cũng không vơi nguồn cảm hứng sáng tạo, nhất là đối với phái đẹp. Ngay cả các giải thưởng ông nhận từ thời còn sinh viên đều từ những bức chân dung thiếu nữ. Ông tâm sự: “Tôi thường thuê người mẫu trong thời gian khá dài, khoảng 5-6 tháng để vẽ liên tục. Có lần sau khi đăng báo, một cô gái đến xin tôi làm người mẫu. Nhưng tôi không chọn cô ấy, mà lại chọn cô bạn gái đi cùng. Bởi tôi thích những cô có gương mặt trái xoan, thân hình thon thả, tính nết dịu dàng, đoan trang”. Những bức chân dung thiếu nữ đầy quyến rũ của Lương Xuân Nhị đã trở thành tài sản vô giá.

Tôi còn nhớ trong một lần hầu chuyện ông, khi hỏi về số phận những bức chân dung phái đẹp, ông kể: “Năm 1937, tôi vẽ được một chân dung thiếu nữ rất tâm đắc có tên Thiếu nữ áo lam, định bụng sẽ giữ lại cho riêng mình. Một khách Hoa Kỳ đến xem tranh, ông ta thích Thiếu nữ áo lam và nằng nặc xin mua bằng được. Tôi bảo bức này không bán.

Ông ta hỏi : “Ông vẽ bức tranh này năm nào?”. Tôi trả lời: “Năm 1937”. Ông ấy cười: “Đó là năm sinh của tôi! Thế ông vẽ tháng nào?”. “Tháng bảy”. “Đó là tháng tôi ra đời” - ông ta ngạc nhiên thú vị. Thấy ông ta tha thiết, cuối cùng tôi phải bán”. Sau đó, bức tranh Thiếu nữ áo lam đã được mang đi triển lãm vòng quanh Hoa Kỳ trong bộ sưu tập tranh Việt Nam. Duy nhất chỉ có một bức là Phụ nữ Thủ đô họa sĩ Lương Xuân Nhị không bao giờ chịu bán, vì đó là chân dung một phụ nữ yểu mệnh vốn là vợ người bạn thân, nên ông giữ để làm kỷ niệm.

Cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng… có thể nói Lương Xuân Nhị là họa sĩ hàng đầu thành công về đề tài vẽ chân dung phái đẹp từ trước Cách mạng Tháng Tám. Không phải ngẫu nhiên Tạp chí Pháp Indochine số 171 năm 1943 đã viết: “Họa sĩ Lương Xuân Nhị theo dư luận của công chúng, là họa sĩ vẽ chân dung người đẹp”. Chính họa sĩ Lương Xuân Nhị cũng tâm sự: “Tôi là người Hà Nội nên cảm nhận được nét đẹp thầm kín, bí ẩn của thiếu nữ Thăng Long. Tôi vẽ rất nhiều chân dung về họ. Những dịp ra nước ngoài, tôi vẽ chân dung thiếu nữ các nước Nhật Bản, Liên Xô, Tiệp Khắc, Đức, Ba Lan… Từ những cảm xúc khác lạ đó, giúp tôi tìm thấy cái riêng biệt của thiếu nữ Thăng Long”.

Dù bất cứ ở đâu, cương vị nào Lương Xuân Nhị cũng cống hiến bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình cho nền hội họa nước nhà. Và trong mọi hoàn cảnh ông cũng luôn gắn bó với giá vẽ, nhờ đó ông có tác phẩm được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cùng các bảo tàng ở Paris, New York, Tokyo và ở nhiều bộ sưu tập cá nhân trong lẫn ngoài nước. Thế nhưng cuối cùng họa sĩ Lương Xuân Nhị cũng phải chấp nhận rời xa các tác phẩm của mình, khi ông mãi mãi ra đi vào một đêm khuya năm 2006 ở tuổi 93 để sum họp cùng những đồng môn thế hệ vàng “chờ” hàn huyên nơi chín suối.

Hoàng Thủy

Nguồn SGĐT: http://www.saigondautu.com.vn/pages/20161229/the-he-vang-hoi-hoa-viet-nam.aspx