Thi sĩ tài hoa bạc mệnh Hàn Mặc Tử qua ký ức người thân

Hàn Mặc Tử tài hoa bạc phận nhưng hạnh phúc thay, bên cạnh ông luôn có một người em chăm sóc, phục vụ những ngày cuối đời.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ kiệt xuất của thời kỳ hiện đại, một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam giữa thời hoàng kim của phong trào Thơ mới. Với tài năng xuất chúng của mình, với nỗi đớn đau của định mệnh vô cùng nghiệt ngã. Ông đã hoàn tất sứ mệnh với cuộc đời, để lại cho đời một di sản vô cùng quý báu với nhiều câu thơ kỳ diệu có thể xếp vào hàng hay nhất của thi ca Việt Nam.

Người tri kỷ

Sinh thời, nhà thơ tài hoa mắc phải một chứng bệnh khốc hại (bệnh phong) mà cho tới nay người đời vẫn cứ đinh ninh rằng Hàn Mặc Tử sớm phải lìa xa cõi thế cũng vì chứng nan y này.

Rất ít người biết được rằng, từ sau khi được người anh rể (chồng của chị Lễ), một viên chức làm việc trong ngành xét nghiệm phát hiện bị mắc bệnh phong. Suốt bốn năm trời chạy chữa và dưỡng bệnh ấy, dẫu rằng có rất nhiều người bạn, người tình trong mộng đến bên cạnh Hàn Mặc Tử. Vậy mà “vết thương tâm” trong nhà thơ vẫn cứ mỏi mòn.

Thi sĩ Hàn Mặc Tử

Hạnh phúc thay còn có một người, đó là ông Phạm Hành (em con chú ruột của Hàn Mặc Tử). Vì quá thương anh sớm lâm trọng bệnh mà ông bỏ học để theo chăm sóc, phục vụ chu tất trong những ngày nhà thơ chống chọi tuyệt vọng với căn bệnh. Là anh em chú bác ruột, nhưng người mang họ Nguyễn (Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí (SN 1912, tại làng Lệ Mỹ, nay thuộc TP Đồng Hới, Quảng Bình), người lại mang họ Phạm, là do ông nội của nhà thơ và ông Hành là ông Phạm Bồi (người gốc Thanh Hóa), vì có liên quan đến phong trào Cần Vương chống Pháp, nên sau khi thất bại, ông Bồi phải trốn vào đất Thừa Thiên.

Khi sinh ra thân phụ của Hàn Mặc Tử, ông Phạm Bồi đã cải họ thành họ Nguyễn và đặt tên con là Nguyễn Văn Toản nhằm tránh những rắc rối về lý lịch sau này. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì, khi sinh ra thân phụ của ông Hành thì ông Phạm Bồi vẫn giữ nguyên họ Phạm để đặt tên cho con.

Ông Phạm Hành (SN 1924, tại làng Thanh Tân, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền - Thừa Thiên-Huế), lớn lên, do những run rủi của phận người, bước chân ông đã dạt trôi đến vùng đất ở phía nam cầu Mỹ Chánh, thuộc xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng (Quảng Trị) và sống luôn ở đó cho đến bây giờ.

Thời điểm tôi cùng nhà báo Nguyễn Hoàn ở Báo Quảng Trị (nay Nguyễn Hoàn là Phó Giám đốc Sở TTTT Quảng Trị) tìm đến được nhà ông Hành. Ngôi nhà nhỏ bé và tuềnh toàng, nằm khuất sau lối đi nhỏ cỏ mọc um tùm, hoang vắng. Vườn nhà tuy rộng nhưng cũng chỉ có mấy gốc chè, vài cây mít... Gia sản đáng giá nhất có chăng chỉ là một cỗ hậu sự do mấy người con đi xây dựng vùng kinh tế mới tận miền Đông Nam Bộ gom góp chuẩn bị sẵn cho ngày ra đi của ông và một kho ký ức về nhà thơ tài danh Hàn Mặc Tử.

Sau khi cha mất sớm, Nguyễn Trọng Trí được mẹ đưa vào Quy Nhơn sống với người anh ruột. Năm 1928, Trí được mẹ cho ra Huế học. Năm 1930, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức với bút hiệu là Lệ Thanh và Phong Trần. Năm 1932, ông làm công chức ở Sở Đạc điền Quy Nhơn dưới quyền của Thương tá Hoàng Phùng (thân sinh của bà Hoàng Thị Kim Cúc - người yêu của Hàn Mặc Tử). Năm 1934, Trí theo Thúc Tề vào Sài Gòn ôm mộng viết báo, làm thơ, lấy bút hiệu là Hàn Mặc Tử.

Từ giã chốn hoa lệ

Năm 1936, thấy mình nhuốm bệnh, Hàn Mặc Tử đã từ giã những người bạn cùng ôm mộng làm thơ, viết báo của mình, từ giã Sài Gòn hoa lệ để quay trở lại Quy Nhơn và xuất bản tập thơ đầu tay “Gái Quê”... Năm đó, ông Hành chừng 12, 13 tuổi gì đó, sống bên cạnh Hàn Mặc Tử, ngày ngày giúp nhà thơ thay quần áo rồi gói ghém mang đến tiệm gửi giặt, lo bưng cơm, rót nước, đặc biệt là lo dán tem lên bì thư rồi đạp xe đi bỏ vào những thùng thư mà Nha Bưu điện đặt rải rác dọc đường phố Quy Nhơn. Ông Hành nhớ là hầu như ngày nào anh Trí cũng bảo ông đạp xe đi gửi thư cả, có ngày tới 3, 4 lá...

Ông Phạm Hành - Em con chú ruột của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Ông Hành kể: “Hồi đó, anh Trí chỉ mới bị mấy cái mụn đỏ đỏ ở trên mặt thôi, chứ chưa phải là phong hủi chi hết. Khi bệnh còn nhẹ, sáng nào anh Trí cũng tập thể dục sớm, thường là anh kéo dây, khi khỏe thì anh kéo một lúc 6 sợi dây cao su, lúc nào mệt thì anh chỉ kéo 2, 3 sợi thôi. Rồi cả ngày anh viết thơ, rồi dạo lui, dạo tới ngâm thơ một mình như người điên... (cười). Anh Trí có kiểu viết thơ lạ lắm, khi mô cũng nằm ngửa, rồi kê tờ giấy trong lòng bàn tay mà viết. Chữ của anh Trí thì cứ chữ này dính với chữ kia kéo thành dây nhìn ngồ ngộ. Hỏi thì anh nói viết như rứa cho mau.

Thân hình anh Trí không to mà cũng không nhỏ lắm, đầu tóc khi mô cũng bờm xờm như đội mũ bê-rê. Trưa trưa, chiều chiều là anh bắc ghế mây ra trước sân ngồi nhìn phong cảnh ngoài con đường Khải Định. Tính tình hiền từ như con gái, và rất ít khi nghe anh Trí nói chuyện ở nhà. Về sau, khi bệnh tình hành hạ, anh Trí hầu như không thích giao du với mọi người nữa”.

Ông Hành nhớ lại, hồi đó có một cô gái nói giọng Bắc Kỳ sang trọng lắm, ngày nào cũng thuê xe kéo tay đảo lui đảo tới vài vòng trước nhà để xin gặp anh Trí, nhưng anh cứ trốn lỳ trong buồng từ chối không gặp. Riết rồi cô con gái năn nỉ quá, anh mới chịu cho gặp, nhưng với một điều kiện là cô gái kia phải bịt mắt khi đối diện với nhà thơ. May thay, bà Nguyễn Thị Duy, mẹ của Hàn Mặc Tử biết chuyện và đã cho cô gái cởi khăn bịt mắt ra.

Ngày tháng cứ dần trôi, bệnh tình của Hàn Mặc Tử mỗi lúc càng thêm bi đát, và rồi căn nhà nằm bên đường Khải Định cũng không đủ sức để níu giữ thân phận nghiệt ngã của nhà thơ. Thời đó, quan niệm của người đời về bệnh phong là kinh khủng lắm, nên gia đình đành thuê một căn nhà nhỏ nằm ven bãi biển Gềnh Ráng, cạnh một đồn lính Tây của hai chị em người đàn bà góa để nhà thơ trú ngụ.

Ông Hành cũng khăn gói đi theo phục dịch anh mình, tiếng thì đi ở riêng nhưng cơm nước hằng ngày ông Hành vẫn về nhà mang đến. Ông Hành cứ nhớ mãi, hồi đó anh Trí chỉ thích ăn cơm với cá liệt kho khô vì loài cá này không độc. Lâu lâu anh Trí mới được ăn một bữa thịt vì mẹ anh cho rằng bệnh phong rất kỵ với hơi của thịt mỡ.

Hai anh em ở trong cái nhà thuê lụp xụp bên mé biển đó được chừng 5 tháng thì bệnh nặng ra. Hàn Mặc Tử được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Quy Nhơn, nằm được vài hôm, đến ngày 20-9-1940 thì hai anh em phải dắt díu nhau đến trú ngụ ở Bệnh viện Phong Quy Hòa. Ở đó, thời bấy giờ được xem là nơi tột cùng đau khổ của nhân gian...

Hoàng Anh

Nguồn GĐ&PL: http://giadinhphapluat.vn/thi-si-tai-hoa-bac-menh-han-mac-tu-qua-ky-uc-nguoi-than-p49203.html