Tỷ lệ sinh toàn thế giới giảm đáng báo động

Tỷ lệ sinh giảm nhanh chóng ở các quốc gia đang gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế, xã hội và chính trị.

Tỷ lệ sinh đang giảm ở hầu hết khu vực trên thế giới, đối với phụ nữ ở mọi mức thu nhập, trình độ học vấn và nghề nghiệp. Sự suy giảm này có tác động to lớn đến lối sống, tốc độ phát triển của các nền kinh tế và vị thế lâu dài của các siêu cường trên thế giới.

Theo Wall Street Journal, thế giới đang tiến tới “một cột mốc nhân khẩu học đáng kinh ngạc”. Khi đó, tỷ lệ sinh con của mỗi phụ nữ sẽ thấp hơn mức 2,2 - tỷ lệ sinh cần thiết để các quốc gia duy trì dân số ổn định, hay còn gọi là tỷ lệ “thay thế”.

Thực tế, ở các quốc gia có thu nhập cao, tỷ lệ sinh đã nằm dưới mức 2,2 từ những năm 1970 và giảm mạnh trong thời kỳ đại dịch. Năm 2023, dù đã vượt qua Trung Quốc và trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới, tỷ lệ sinh ở Ấn Độ vẫn ở dưới mức thay thế.

“Mùa đông nhân khẩu học đang đến gần”, Jesús Fernández-Villaverde, nhà kinh tế chuyên về nhân khẩu học tại Đại học Pennsylvania, cho biết.

“Vấn đề cấp bách quốc gia”

Năm 2017, khi tỷ lệ sinh toàn cầu là 2,5, Liên Hợp Quốc cho rằng con số này sẽ giảm xuống còn 2,4 vào cuối những năm 2020. Tuy nhiên, vừa đến 2021, tỷ lệ sinh đã giảm còn 2,1, thấp hơn đáng kể so với dự đoán của Liên Hợp Quốc.

 Tỷ lệ sinh của Mỹ và Hàn Quốc trong thời gian 1950 đến 2023. Ảnh: Wall Street Journal.

Tỷ lệ sinh của Mỹ và Hàn Quốc trong thời gian 1950 đến 2023. Ảnh: Wall Street Journal.

Thực tế, các thống kê nhân khẩu học ở các quốc gia cho thấy tỷ lệ sinh trong năm 2023 thấp hơn so với tỷ lệ dự kiến của Liên Hợp Quốc.

Tại Trung Quốc, tổng cộng có 9 triệu ca sinh nở vào năm 2023, thấp hơn 16% so với dự kiến. Tại Mỹ, 3,59 triệu trẻ sơ sinh đã được sinh ra vào năm 2023, thấp hơn 4% so với kế hoạch.

Ở các quốc gia khác, tỷ lệ sinh giảm còn giảm mạnh hơn: Ai Cập báo cáo tỷ lệ sinh thấp hơn 17% trong năm 2023, Kenya còn ít hơn với 18% so với kế hoạch.

Nhiều người đứng đầu đất nước xem việc giảm tỷ lệ sinh dưới mức thay thế là một “vấn đề cấp bách quốc gia”. Họ lo lực lượng lao động sẽ bị thu hẹp, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại và lương hưu bị thiếu hụt. Đặc biệt, sức sống của xã hội sẽ giảm bớt khi số lượng trẻ em ngày càng ít.

 Khu vực chăm sóc trẻ sơ sinh của một bệnh viện tại Hungary. Ảnh: Shutterstock.

Khu vực chăm sóc trẻ sơ sinh của một bệnh viện tại Hungary. Ảnh: Shutterstock.

Ở các siêu cường như Mỹ, Trung Quốc và Nga, quy mô dân số thu hẹp đồng nghĩa với sức ảnh hưởng toàn cầu thu hẹp. Các nhà nhân khẩu học cho biết dân số thế giới đã giảm liên tiếp bốn thập kỷ. Đây là một hiện tượng hiếm khi xảy ra trong lịch sử nhân loại.

Các chính trị gia Mỹ gọi tỷ lệ sinh giảm là “mối đe dọa lớn đối với nền văn minh phương Tây”. Năm trước, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida tuyên bố tỷ lệ sinh giảm đã khiến nước này “đứng trước nguy cơ không thể hoạt động như một xã hội thực thụ”. Trong khi đó, Thủ tướng Italy Giorgia Meloni lại xem việc nâng cao “GDP nhân khẩu học” là vấn đề hàng đầu.

Chính sách mới

Các chính phủ đã cố gắng đảo ngược xu hướng giảm của tỷ lệ sinh nở bằng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ khác nhau.

Trong đó, Nhật Bản là quốc gia có lịch sử đấu tranh lâu dài với xu hướng này. Đầu những năm 1990, khi mức sinh giảm xuống còn 1,5, thấp hơn 0,7 so với mức sinh thay thế, chính phủ đã triển khai một loạt kế hoạch nhằm khuyến khích các gia đình sinh con. Ví dụ như cho phép cha mẹ nghỉ phép không lương, tung ra các gói trợ cấp cho trẻ em. Dù vậy, mức sinh sản quốc gia vẫn tiếp tục giảm.

 Tỷ lệ sinh ở Mỹ, Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hungary và Nhật Bản từ 1980 đến 2023. Ảnh: Jesús Fernández-Villaverde Rosie Ettenheim / Wall Street Journal.

Tỷ lệ sinh ở Mỹ, Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hungary và Nhật Bản từ 1980 đến 2023. Ảnh: Jesús Fernández-Villaverde Rosie Ettenheim / Wall Street Journal.

Năm 2005, Kuniko Inoguchi được bổ nhiệm là bộ trưởng đầu tiên của Nhật Bản chịu trách nhiệm về bình đẳng giới và tỷ lệ sinh quốc gia. Bà tuyên bố trở ngại lớn nhất trong công cuộc thúc đẩy sinh sản là vấn đề tài chính. “Mọi người không đủ khả năng để kết hôn hoặc sinh con”, Bộ trưởng Bộ bình đẳng giới và Các vấn đề xã hội Nhật bản nhấn mạnh.

Từ đó, quốc gia này ban hành nhiều chính sách như miễn phí dịch vụ chăm sóc thai sản tại bệnh viện, trợ cấp cho những gia đình có con nhỏ. Nhờ vậy, tỷ lệ sinh của Nhật tăng từ 1,26 (năm 2005) lên 1,45 (năm 2015). Tuy nhiên, các chính sách tài chính có vẻ không mang về hiệu quả lâu dài khi mức sinh ở “xứ sở hoa anh đào” lần nữa trở lại mốc 1,26 vào năm 2022.

Năm nay, Thủ tướng Fumio Kishida lại triển khai một chương trình khác nhằm tăng tỷ lệ sinh. Ông ban hành các gói trợ cấp hàng tháng cho tất cả trẻ em dưới 18 tuổi, bất kể thu nhập của cha mẹ và miễn học phí đại học cho các gia đình có ba con.

 Một sự kiện dành cho trẻ em ở Nhật Bản trong tháng 5 năm nay. Ảnh: Zuma Press.

Một sự kiện dành cho trẻ em ở Nhật Bản trong tháng 5 năm nay. Ảnh: Zuma Press.

Thủ tướng Hungary Viktor Orban đã thúc đẩy một chính sách thúc đẩy sinh sản, theo Wall Street Journal, tham vọng nhất châu Âu. Năm 2023, ông ban hành một chính sách cho phép những bà mẹ dưới 30 tuổi được miễn thuế thu nhập cá nhân suốt đời. Họ còn được trợ cấp nhà ở và hỗ trợ chi phí chăm sóc trẻ em đi kèm chế độ thai sản hào phòng.

Nhờ đó, tỷ lệ sinh của Hungary, dù thấp hơn nhiều so với mức thay thế, đã tăng trở lại từ năm 2010. Tuy nhiên, Viện Nhân khẩu học Vienna cho rằng mức tăng này vẫn còn nhẹ và khó duy trì lâu dài.

Ở Mỹ, các nhà hoạch định chính sách cũng nỗ lực khuyến khích sinh sản khi liên tục tăng trợ cấp chăm sóc trẻ em và cho phép cha mẹ nghỉ phép mà vẫn có lương. Dù vậy, theo Thượng nghị sĩ J.D. Vance (Ohio, Mỹ), vẫn chưa có những bằng chứng rõ ràng cho thấy đâu là chính sách hiệu quả để thúc đẩy tỷ lệ sinh.

Đông Tùng

Theo Wall Street Journal

Nguồn Znews: https://lifestyle.znews.vn/ty-le-sinh-toan-the-gioi-giam-dang-bao-dong-post1475369.html