Vũng Tàu: Thiệt hại của doanh nghiệp từ tờ công văn của Sở Tài chính

Sự vô lý trong việc áp đặt đơn giá cho thuê đất và nguyên tắc điều chỉnh đơn giá cho thuê đất không theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để chối bỏ trách nhiệm.

Trong bài viết trước, chúng tôi đề cập đến sự vô lý trong việc áp đặt đơn giá cho thuê đất và nguyên tắc điều chỉnh đơn giá cho thuê đất không theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ văn bản số 3345/STC-QLGCS ngày 25/12/2013 và tự cho rằng mình đã “xác định đúng theo quy định của pháp luật tại từng thời kỳ do Chính phủ, Bộ Tài chính và của Ủy ban nhân dân tỉnh…” để chối bỏ trách nhiệm giải quyết những thiệt hại rất lớn đã và đang xảy ra mà Công ty TNHH Shinhan Việt Nam phải gánh chịu từ văn bản này và văn bản số 1807/STC-QLGCS ngày 02/06/2017 của Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đơn giá cho thuê đất của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với Công ty TNHH Shinhan Việt Nam.

Như chúng tôi đã phân tích ở bài viết trước, hai văn bản này hoàn toàn không nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhưng nó lại có sự ảnh hưởng rất lớn trong nội bộ ngành. Bằng chứng là dựa theo nội dung này, Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa đã đưa ra mức thu không tưởng dành “thưởng” cho Công ty TNHH Shinhan Việt Nam.

Theo tính toán của chúng tôi, nếu căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tại Giấy phép đầu tư số 44/GP-BV, Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì số tiền thuê đất mà Công ty TNHH Shinhan Việt Nam phải trả trong suốt thời hạn hoạt động 50 (năm mươi) năm của doanh nghiệp, kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư sẽ là:

(1) Từ 03/11/2005 đến 31/12/2010: 121.870.000 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho một chu kỳ (05 năm) đầu tiên là: 629.659.765 đồng (Số liệu này đã đối chiếu và khớp đúng với Bảng tính tiền thuê đất hàng năm do Đội Trước bạ & Thu khác – Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa lập ngày 24 tháng 8 năm 2016 – NV).

(2) Từ 01/01/2011 đến 31/12/2015: 140.150.500 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ hai là: 700.752.500 đồng.

(3) Từ 01/01/2016 đến 31/12/2020: 161.173.075 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ ba là: 805.865.375 đồng.

(4) Từ 01/01/2021 đến 31/12/2025: 185.349.036 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ tư là: 926.745.181 đồng.

(5) Từ 01/01/2026 đến 31/12/2030: 213.151.391 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ năm là: 1.065.756.857 đồng.

(6) Từ 01/01/2031 đến 31/12/2035: 245.124.099 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ sáu là: 1.225.620.498 đồng.

(7) Từ 01/01/2036 đến 31/12/2040: 281.892.713 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ bảy là: 1.409.463.569 đồng.

(8) Từ 01/01/2041 đến 31/12/2045: 324.176.619 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ tám là: 1.820.883.099 đồng.

(9) Từ 01/01/2046 đến 31/12/2050: 372.803.111 đồng/ năm; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ chín là: 1.864.015.559 đồng.

(10) Từ 01/01/2051 đến 31/12/2054: 428.753.577 đồng; Tổng số tiền thuê đất phải nộp cho chu kỳ thứ mười là: 1.714.894.310 đồng.

Khi quyết định đầu tư vào Việt Nam, ông Han Dong Heon đã xác định số tiền thuê đất phải trả cho Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong suốt thời hạn 50 năm của giấy phép là: 12.163.656.813 đồng. Trong khi Thông báo nộp nợ tiền thuê đất số 747/TB-CCT ngày 05/03/2014, Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa xác định tiền thuê đất phải nộp của năm 2013 là: 121.870.000 đồng. Nhưng đến ngày 08/04/2014, cơ quan này lại xác định tiền thuê đất mà doanh nghiệp đang nợ các năm trước với số tiền là: 3.312.761.900 đồng (!?).

Với số liệu trên Bảng tính tiền thuê đất hàng năm do Đội Trước bạ & Thu khác – Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa lập ngày 24 tháng 8 năm 2016, thì từ năm 2011 đến năm 2015, mỗi năm Công ty TNHH Shinhan Việt Nam phải nộp số tiền thuê đất là 1.507.707.000 đồng. Khiếu nại xảy ra từ hướng dẫn cách tính đơn giá cho thuê đất của văn bản số 3345/STC-QLGCS ngày 25/12/2013 của Sở Tài chính dẫn đến số liệu trên Bảng tính tiền thuê đất hàng năm do Đội Trước bạ & Thu khác – Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa lập ngày 24 tháng 8 năm 2016, thì từ năm 2011 đến năm 2015, mỗi năm Công ty TNHH Shinhan Việt Nam phải nộp số tiền thuê đất là 1.507.707.000 đồng.

Theo sự tính toán này, nếu tính đến ngày 31/12/2015, Chi cục Thuế thành phố Bà Rịa ấn định số phải thu là 8.138.194.765 đồng. Nếu tính đúng theo quy định pháp luật, số tiền thuê đất mà doanh nghiệp chỉ phải nộp tương đương 1.330.412.265 đồng. Số tiền chênh lệch 6.807.782.500 đồng tương ứng với số tiền thuê đất mà doanh nghiệp này sẽ phải trả trong 30 (ba mươi) năm tiếp theo với chu kỳ tăng theo quy định, thì liệu nhà đầu tư nào có thể chấp nhận số tiền tăng đột biến khổng lồ này?

Dù điều này quá bất hợp lý nhưng khi trực tiếp làm việc với một vị lãnh đạo của Sở Tài chính tỉnh (vì lý do tế nhị, không tiện nêu tên cụ thể) thì chúng tôi lại được hướng dẫn: “Theo quy định, doanh nghiệp phải nộp tiền trước, khiếu nại sau để tránh bị cơ quan thuế cưỡng chế…”. “Là người am hiểu pháp luật, anh nên tư vấn cho doanh nghiệp nộp tiền trước”…

Hoạt động trong tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, chúng tôi sẵn sàng làm cầu nối cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp đạt được tiếng nói chung nhưng trong vụ việc này, dựa trên cơ sở pháp lý nào để chúng tôi giải thích, thuyết phục nhà đầu tư nước ngoài nộp số tiền khổng lồ từ trên trời rơi xuống từ việc Sở Tài chính tự suy diễn nội dung “Quyết định cho thuê đất số 4199/QĐ-UBND ngày 02 tháng 11 năm 2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh, Hợp đồng thuê đất số 05/HĐTĐ ngày 04 tháng 11 năm 2005 và Phụ lục Hợp đồng thuê đất số 01 PLHĐ/TĐ ngày 01 tháng 06 năm 2007 không ghi đơn giá và nguyên tắc điều chỉnh đơn giá thuê đất,…”.

Sau đó, cắt khúc các điều khoản quy định trong Nghị định này, Thông tư kia để áp đặt đơn giá bất hợp lý, từ đó quy buộc doanh nghiệp phải nộp tiền trước rồi chờ giải quyết khiếu nại sau. Khi tiếp xúc với chúng tôi, cán bộ của cơ quan tham mưu, giúp việc về quản lý tài chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn lặp lại điệp khúc tự cho rằng mình đã “xác định đúng theo quy định của pháp luật tại từng thời kỳ do Chính phủ, Bộ Tài chính và của Ủy ban nhân dân tỉnh...” nhưng khi chúng tôi hỏi điều khoản nào của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh quy định để xác định khoản thu tiền thuê đất trong giai đoạn 2011 – 2015 hình thành mức tăng đột biến gấp 12,5 lần như vậy, thì không nhận được câu trả lời thỏa đáng.

Có thể nói, tạo nên một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn luôn là một mục tiêu mà Chính phủ hướng tới với nỗ lực rất cao vì cải thiện môi trường đầu tư sẽ khuyến khích được các nguồn lực trong và ngoài nước tập trung cho đầu tư, phát triển kinh tế Việt Nam.

Qua sự việc này, chúng tôi mong muốn Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhanh chóng khắc phục những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện nhằm tạo nên một hành lang pháp lý minh bạch và thuận tiện hơn, rõ ràng hơn nữa, hiệu quả hơn nữa để không những khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài mạnh dạn đầu tư nguồn vốn vào tỉnh nhà, góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước, cải thiện tính cạnh tranh của hàng hoá xuất xứ tại Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng tôi tiếp tục cập nhật thông tin liên quan vụ việc này.

Điều 21 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 và Khoản 1 Điều 9 Luật Đầu tư năm 2014:

Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.

Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được cấp giấy phép, thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư.

Điều 4 Luật Đầu tư năm 2014:

1. Hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và luật khác có liên quan.

2. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật này, trừ trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh theo quy định tại Luật Chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Dầu khí.

Luật gia Đỗ Minh Chánh

Nguồn GĐ&PL: http://giadinhphapluat.vn/vung-tau-thiet-hai-cua-doanh-nghiep-tu-to-cong-van-cua-so-tai-chinh-p54223.html