10 tác phẩm kinh điển của 'kỷ nguyên vàng' phim hành động

Thập niên 1980 là thời hoàng kim của dòng hành động với những người hùng cơ bắp. Những tựa đề như 'The Terminator', 'Predator', 'Die Hard' vẫn giữ nguyên sức ảnh hưởng tới hôm nay.

Raiders of the Lost Ark (1981): Bộ phim của đạo diễn Steven Spielberg đã đặt ra chuẩn mực mới cho dòng phim phiêu lưu hành động, đồng thời giới thiệu với công chúng một trong những người hùng vĩ đại nhất: Indiana Jones, dưới sự thể hiện của Harrison Ford. Nhà khảo cổ học đã dẫn dắt khán giả qua nhiều vùng đất trên thế giới, đưa họ qua những khoảnh khắc thót tim, sợ hãi, rồi vỡ òa. Raiders of the Lost Ark là bộ phim gần như hoàn hảo, và giúp mở ra thương hiệu giải trí gần 40 năm tuổi.

Raiders of the Lost Ark (1981): Bộ phim của đạo diễn Steven Spielberg đã đặt ra chuẩn mực mới cho dòng phim phiêu lưu hành động, đồng thời giới thiệu với công chúng một trong những người hùng vĩ đại nhất: Indiana Jones, dưới sự thể hiện của Harrison Ford. Nhà khảo cổ học đã dẫn dắt khán giả qua nhiều vùng đất trên thế giới, đưa họ qua những khoảnh khắc thót tim, sợ hãi, rồi vỡ òa. Raiders of the Lost Ark là bộ phim gần như hoàn hảo, và giúp mở ra thương hiệu giải trí gần 40 năm tuổi.

Mad Max 2 (1981): Kinh phí 4,5 triệu USD của Mad Max 2 cao gấp 10 lần so với phần đầu tiên. Với số tiền mới, đạo diễn George Miller đã nâng tầm thương hiệu khi bộ phim tiến bộ hơn hẳn so với phần một ở mọi khía cạnh kỹ thuật. Tất cả giúp người xem quên đi một thực tế rằng nội dung hai bộ phim tương đối giống nhau. Mad Max 2 chính là nước cờ cần thiết và quan trọng để loạt Max Điên có thể tiếp tục kéo dài tới tận ngày nay.

First Blood (1982): Không chỉ dừng lại ở các cảnh hành động bạo lực, First Blood còn đem lại cho khán giả cái nhìn về chân dung người lính Mỹ sau khi trở về từ chiến trường Việt Nam. Có một điều thú vị rằng John Rambo (Sylvester Stallone) đã lấy mạng của hơn 500 đối thủ suốt cả loạt phim, nhưng chỉ một trong số đó diễn ra ở phần đầu tiên. Do đó, First Blood rất khác biệt so với các tập Rambo sau này, cũng như nhiều phim hành động cùng thời, và trở nên vô cùng đáng nhớ.

The Terminator (1984): Thực chất chỉ là một phim độc lập, nhưng câu chuyện một chiến binh tương lai và một người máy tương lai du hành về quá khứ để giao chiến đã giúp mở ra một thương hiệu kéo dài hơn 30 năm. James Cameron tạo ra những điều chưa từng thấy trước đây tại Hollywood với The Terminator, còn người máy T-800 lập tức trở thành vai diễn biểu tượng của Arnold Schwarzenegger. Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của tác phẩm, dù cho đến những phần gần nhất, thương hiệu Kẻ hủy diệt đã xuống sức rõ rệt.

Aliens (1986): Thực hiện phần tiếp theo cho tác phẩm kinh điển Alien (1979) là nhiệm vụ không hề đơn giản. Song, James Cameron đã làm được. Trái với đồng nghiệp Ridley Scott, Cameron không chọn yếu tố kinh dị làm chủ đạo, mà biến Aliens thành như một tác phẩm hành động. Kết quả là khán giả được theo dõi một tác phẩm giật gân từ đầu tới cuối. Aliens sau đó giành hai tượng vàng Oscar cho các hạng mục kỹ thuật, và giúp Sigourney Weaver có đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc.

Predator (1987): Đạo diễn John McTiernan quy tụ một dàn diễn cơ bắp, với Arnold Schwarzenegger đứng đầu, để rồi từng người trong số họ lần lượt ngã xuống vì một sinh vật bí ẩn. Predator cứ thế khiến người xem mong chờ rồi tiếc nuối với từng gương mặt một, cho tới khi Dutch (Arnie) ra tay. Suốt hơn 30 năm qua, không có bất cứ phim hậu truyện, tiền truyện hay ngoại truyện nào của Predator có thể vượt qua tập đầu. Điều đó cho thấy bộ phim mở ra thương hiệu tốt đến thế nào.

RoboCop (1987): Nhiều pha hành động bạo lực, một nhân vật có vẻ ngoài giúp các vật phẩm ăn theo bán chạy, nhưng RoboCop còn đáng nhớ hơn thế. Dưới bàn tay nhào nặn của đạo diễn Paul Verhoeven, nhiều thông điệp ẩn dụ sâu cay về văn hóa Mỹ len lỏi khắp trong phim. Đây là điều giúp RoboCop trở nên đặc biệt trong con mắt khán giả và báo chí suốt hơn 30 năm qua. Đáng tiếc thay, các phim hậu truyện sau đó không thể tiếp nối thành công ấy.

Lethal Weapon (1987): Lethal Weapon là một đỉnh cao của dòng phim buddy cop. Kịch bản phim không quá đột phá, nhưng sự ăn ý giữa Mel Gibson với Danny Glover đã biến bộ đôi cảnh sát Riggs - Murtaugh trở nên kinh điển trong mắt khán giả. Đồng thời, phim cũng khéo léo cân bằng yếu tố hành động với tâm lý xoay quanh đời tư của hai nhân vật chính. Lethal Weapon sau đó có thêm bốn phần hậu truyện, và phần 5 vẫn được ấp ủ bấy lâu nay, dù Gibson và Glover nay đã lớn tuổi.

Die Hard (1988): John McClane (Bruce Willis) trông không cơ bắp như nhiều nhân vật hành động cùng thời. Nhưng sự máu lửa của chàng cảnh sát thành phố New York trong cuộc giải cứu vợ khỏi bọn khủng bố trên tòa tháp Nakatomi Plaza thì khó ai sánh bằng. Nhiều lời thoại và pha hành động trong Die Hard đã trở thành kinh điển, được các bộ phim sau này học hỏi theo. Thật tiếc khi chất lượng các phần hậu truyện của Die Hard cứ thế giảm dần, và tương lai của Die Hard 6 bị đặt dấu hỏi sau khi Disney thâu tóm Fox.

The Killer (1989): Nối tiếp thành công của A Better Tomorrow (1987), đạo diễn Ngô Vũ Sâm và tài tử Châu Nhuận Phát tiếp tục hợp tác qua The Killer - tác phẩm được ví như tượng đài của dòng hành động, và gây ảnh hưởng tới nhiều bộ phim Hollywood nổi tiếng sau này như Desperado, Leon, Jackie Brown… Trường đoạn đọ súng cuối phim được Ngô Vũ Sâm thực hiện chỉn chu, kỹ lưỡng. Theo truyền thông, trong thập niên 1990, đã có rất nhiều bộ phim ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương cố gắng bắt chước theo The Killer.

Theo An Thanh/Zing

Nguồn Doanh Nghiệp: http://doanhnghiepvn.vn/van-hoa/10-tac-pham-kinh-dien-cua-ky-nguyen-vang-phim-hanh-dong/20200713100245459