Ảnh hiếm về ba vị vua cuối cùng Việt Nam

Trong ba vị vua cuối cùng của Việt Nam, vua Duy Tân lên ngôi khi mới 8 tuổi, nổi bật bởi lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống Pháp.

VuaDuy Tân tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh San, sinh năm 1900 có lòngyêu nước và tinh thần chống Pháp. Ngay từ nhỏ, hoàng tử Vĩnh San đãcó tư chất thông minh, nhanh nhẹn và tháo vát.

Năm1907, sau khi phế truất vua Thành Thái vì có thái độ bất hợp tác vàchống đối Pháp, chính quyền thực dân muốn chọn trong số các con củaThành Thái, một người ngoan ngoãn, biết nghe lời, phục tùng để đưalên kế vị. Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi được chọn lên ngôi, hiệu làDuy Tân.

Tráivới mong muốn của thực dân Pháp, lớn lên trong cảnh đất nước bị đôhộ, lầm than, cơ cực, vị vua trẻ tuổi luôn có ý thức cứu nước, cưúdân. Vua Duy Tân dự định tham dự cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưngbị lộ. Bị thực dân Pháp bắt, dùng mọi biện pháp từ mua chuộc tơíhăm dọa nhưng vua Duy Tân vẫn không khuất phục. Chúng đày nhà vuasang đảo Réunion.

VuaDuy Tân tham gia quân đội Pháp trong thời kỳ chiến tranh thế giơíthứ hai rồi giải ngũ với quân hàm thiếu tá.

VuaDuy Tân mất năm 1945 trong một vụ tai nạn máy bay khi ông đang trênđường trở về Réunion.

VuaKhải Định sinh năm 1885 tên thật là Bửu Đảo, con của vua Đồng Khánhvà bà Tiên Cung Dương Thị Thục. Khi vua Đồng Khánh qua đời, Bửu Đảocòn nhỏ tuổi nên không được kế vị. Nǎm 1906 Bửu Đảo được phong làPhụng Hóa Công.

ViệcBửu Đảo lên ngôi không hoàn toàn suôn sẻ vì sau khi buộc tội vuaDuy Tân, người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ nền quân chủ ở Việt Namnhưng các triều thần, đặc biệt là thượng thư Nguyễn Hữu Bài khôngchịu nên Pháp phải chiều theo ý. Ngày 18/5/1916, Nguyễn Phúc BưủĐảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định.

KhảiĐịnh bị đánh giá là một vị vua chỉ ham chơi bời. Ông tự sáng chế ranhững bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ. Ông rất chuộngtrang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng bàotruyền thống của các vua chúa và thường bị đả kích trên báo chíđương thời. Vua Khải Định sáng tác ra võ phục, thường mặc trong cácbuổi lễ, bị nhiều người chê lai căng.

VuaKhải Định đi săn vịt trời ở hồ Tịnh Tâm. Vua mặc đồ đi săn theokiểu Tây nhưng các quan thị vệ theo hầu vẫn cứ áo dài, khăn đóng,bài ngà. Chỉ có một cái mới: Thị vệ cấp lớn được đi giày ống kiêủTây.

KhảiĐịnh không được lòng dân chúng, làm vua được 10 năm thì bị bệnhnặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (tức 6/11/1925), thọ 40tuổi.

VuaBảo Đại sinh năm 1913, tên thật Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, là con traiđộc nhất của vua Khải Định. Đến nǎm 10 tuổi, Vĩnh Thụy được phonglàm Đông cung thái tử.

Saukhi trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy được trao cho Khâm sứ Sác-lơmang về Pháp đào tạo. Nǎm 1925, vua Khải Định mất, thế tử Vĩnh Thuỵvề chịu tang và được nối ngôi cha, lấy hiệu là Bảo Đại khi mới 13tuổi.

Saukhi lên ngôi, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập cho đến khitốt nghiệp Trung học (tương đương học vị tú tài Pháp). Trong thơìgian vua ở nước ngoài, Hội đồng phụ chính điều hành mọi việc triêùđình. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà nước bảo hộ. Triều đình Huếchỉ còn là bộ máy tay sai do thực dân Pháp trả lương.

Tháng8/1932, lúc này Bảo Đại đã 19 tuổi, cùng triều quan xuống tàu vềnước. Sau 10 nǎm đào tạo ở “mẫu quốc” trở về, Bảo Đại cho ban hànhhàng loạt chính sách cải cách nhưng thực chất chỉ là hình thức mịdân.

Bắtđầu bằng cách bãi bỏ những trò vái lạy, không để cho các quan khâúđầu quỳ tấu ở trước sân đình. Điều này tưởng như chẳng có gì lớnlao, nhưng đối với các quan lại phong kiến trước đây là điều hệtrọng.

Trướchàng vạn người dân dự mít tinh ở Ngọ Môn ngày 30/4/1945, Bảo Đạiđọc chiếu thoái vị, nộp ấn, kiếm cho phái đoàn Chính phủ ta, vàtuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nôlệ” và nhận huy hiệu trở thành công dân Vĩnh Thụy, chấm dứt thơìđại quân chủ của Việt Nam. Lúc đó, Bảo Đại 32 tuổi, làm vua được 19nǎm.

Theo Anh Tuấn (tổng hợp) (Kiến Thức)

Nguồn Dân Việt: http://danviet.vn/dong-tay-kim-co/anh-hiem-ve-ba-vi-vua-cuoi-cung-viet-nam-886799.html