Bác Hồ trong trái tim tôi

Mỗi mùa sen thơm ngát đến với đất trời Thủ đô Hà Nội, tôi lại chọn những bông sen tươi còn lóng lánh sương mai thành kính dâng lên Bác Hồ. Người là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc nói chung và cho chính bản thân tôi nói riêng.

Thuở ấu thơ, khi còn là học sinh lớp 4 ở khu phố Hai Bà Trưng (Hà Nội), tôi vinh dự được chọn là một trong những thành viên của đoàn thiếu niên, nhi đồng Thủ đô tham dự buổi liên hoan văn nghệ do Đoàn Ca múa Tân Cương (Trung Quốc) biểu diễn tại Hội trường Ba Đình vào chiều 17-3-1964. Kết thúc buổi biểu diễn, Bác Hồ lên sân khấu bắt tay, tặng hoa các diễn viên đoàn bạn và Bác nói chuyện: Các cô, các chú từ Tân Cương xa xôi đến đây, mang cho Bác cháu ta lời ca, điệu múa để Bác cháu ta hiểu thêm đất nước và nhân dân Trung Hoa anh em, thắt chặt hơn tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, thiếu nhi hai nước.

Người căn dặn: Bác được biết các cháu đã cố gắng học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt. Bác mong các cháu sẽ cố gắng học tập, lao động và đoàn kết tốt hơn nữa để xứng đáng là thiếu nhi Thủ đô nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng, Bác bắt nhịp cho cả hội trường hát bài “Kết đoàn”.

Kỷ niệm về lần gặp Bác luôn là niềm tự hào trong câu chuyện tôi thường kể cho các bạn nghe. Chính vì vậy, khi được vinh dự đại diện tuổi trẻ Thủ đô Hà Nội đến viếng, dự Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 9-9-1969 tại Quảng trường Ba Đình, trái tim tôi như nghẹn lại, tôi òa khóc cùng các cô, các chú, các anh chị vì sự đau thương, mất mát của dân tộc và trong chính lòng mình... Tôi nguyện sẽ quyết tâm học tập và dấn thân theo con đường của Bác.

Ảnh minh họa: laichau.dcs.vn

Ảnh minh họa: laichau.dcs.vn

Gần một năm sau (năm 1970), tôi viết đơn tình nguyện và nhập ngũ vào Tiểu đoàn 38, Bộ tư lệnh Thủ đô. Sau một thời gian ngắn huấn luyện bộ binh, khi vào đến chiến trường, tôi được huấn luyện thêm và biên chế về Tiểu đoàn 84, Sư đoàn 968, Bộ tư lệnh Trường Sơn. Trong cuộc đời quân ngũ, tôi luôn khắc ghi lời Bác dạy và cùng đơn vị lập được nhiều chiến công trên tuyến vận tải chiến lược Tây Trường Sơn. Sau khi miền Nam được giải phóng, tôi theo đội hình Đại đội 21, Trung đoàn 39, Đoàn 565 Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hỗ trợ các LLVT của nước bạn Lào phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở các tỉnh Nam Lào.

Năm 1973, gia đình tôi được Thủ tướng Chính phủ khen tặng “Bảng vàng danh dự” do gia đình có 3 con trai tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước và đều được kết nạp Đảng trong quân ngũ. Đó là các cựu chiến binh: Lê Võ Định Tường, sinh năm 1945, nhập ngũ năm 1968; Lê Võ Tiên Hưng, sinh năm 1949, nhập ngũ năm 1966 và Lê An Khánh, sinh năm 1953, nhập ngũ năm 1970.

Gần 60 năm đã trôi qua kể từ ngày được gặp Bác, nhưng những hình ảnh hiền từ, tình cảm ấm áp và những lời dạy bảo ân cần của Bác luôn là hành trang, động lực để bản thân tôi thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và từng bước trưởng thành trên con đường trọn lòng với Đảng, với Bác.

LÊ AN KHÁNH

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/bac-ho-trong-trai-tim-toi-729798