Bàn về nhiệm vụ của BĐBP trong dự án Luật Biên phòng Việt Nam

Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 của Quốc hội, dự kiến, dự án Luật Biên phòng Việt Nam (BPVN) sẽ được trình Quốc hội thông qua vào Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV. Cho đến nay, đã có nhiều ý kiến tâm huyết, trách nhiệm, chất lượng, góp phần hoàn thiện dự thảo Luật BPVN và đồng thuận cao với việc ban hành luật này.

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Ảnh: CTV

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Ảnh: CTV

Nhiệm vụ Biên phòng là một trong 3 chính sách được đánh giá tác động, xác định để xây dựng dự án Luật BPVN. Trong dự thảo Luật BPVN đã quy định nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan, lực lượng chức năng và sự tham gia của nhân dân ở khu vực biên giới (KVBG) đối với công tác bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, trật tự, an toàn xã hội ở KVBG. Đồng thời, dự thảo Luật BPVN cũng quy định nhiệm vụ của BĐBP với vai trò của lực lượng chuyên trách, chủ trì thực hiện nhiệm vụ ở hai nhóm quản lý biên giới quốc gia, KVBG và bảo vệ biên giới quốc gia, KVBG. Vấn đề đặt ra ở đây là, có ý kiến còn trăn trở, chưa thật sự đồng thuận với cơ quan soạn thảo dự án Luật BPVN về nhiệm vụ “Chủ trì thực hiện nhiệm vụ duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và vi phạm pháp luật ở KVBG, cửa khẩu theo quy định của pháp luật”, theo thuật ngữ chính trị - pháp lý (sau đây gọi tắt là nhiệm vụ “Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu”).

Trước hết, nội dung thể hiện của nhiệm vụ trên có cơ sở chính trị, pháp lý hết sức vững chắc. Về cơ sở chính trị, nội dung nhiệm vụ “Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu” là sự thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng ta đối với nhiệm vụ công tác biên phòng. Cụ thể như Nghị quyết 11-NQ/TW, ngày 8-8-1995 về xây dựng lực lượng BĐBP trong tình hình mới xác định: “BĐBP là một lực lượng làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao”; Thông báo 165-TB/TW, ngày 22-12-2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức của BĐBP chỉ rõ: “BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lấn chiếm biên giới, vi phạm chủ quyền và chống các hoạt động xâm nhập, vượt biên phá hoại an ninh, trật tự của địch và các loại tội phạm, nhất là buôn lậu, vận chuyển ma túy, vũ khí, chất nổ qua biên giới”.

Về cơ sở pháp lý, thứ nhất, việc quy định nhiệm vụ “Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu” là đảm bảo thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Cụ thể: Khoản 2, Điều 31, Luật Biên giới quốc gia, năm 2003, quy định: “BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở KVBG theo quy định của pháp luật”; tại Điểm c, Khoản 1, Điều 22, Luật An ninh quốc gia cũng xác định: “BĐBP, Cảnh sát Biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở KVBG trên đất liền và KVBG trên biển”; trong Khoản 2, Điều 35, Luật Quốc phòng, năm 2018 cũng quy định Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ, quyền hạn: “... duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở KVBG, cửa khẩu, hải đảo, vùng biển và vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Thứ hai, lịch sử hình thành, phát triển của BĐBP đã chứng minh tính đúng đắn, khoa học của nhiệm vụ này. Với trên 61 năm xây dựng, chiến đấu và phát triển; trong đó, BĐBP đã có 28 năm thuộc Bộ Công an và trên 33 năm thuộc Bộ Quốc phòng, với tên gọi đầu tiên là Công an nhân dân vũ trang (được hợp nhất bởi bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị Công an Biên phòng, Cảnh sát vũ trang theo Nghị định 100-TTg ngày 3-3-1959 của Chính phủ).

Thứ ba, nhiệm vụ chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự của BĐBP được thực hiện ở địa bàn có tính chất đặc thù và theo chức năng, quyền hạn do pháp luật quy định. KVBG bao gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với đường biên giới quốc gia; khu vực cửa khẩu gắn với đường biên giới quốc gia, bao gồm các khu chức năng để đảm bảo cho các hoạt động quản lý Nhà nước và hoạt động dịch vụ, thương mại tại cửa khẩu. Đây là những địa bàn có tính đặc thù, có quy chế pháp lý điều chỉnh về các lĩnh vực xuất, nhập qua cửa khẩu và ra, vào, hoạt động tại đây. Đặc biệt, KVBG, cửa khẩu gắn liền với đường biên giới quốc gia, liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mối quan hệ biện chứng với nội dung này.

Thứ tư, nhiệm vụ “Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu” của BĐBP được đặt trong mối quan hệ với từng nhóm nhiệm vụ. Nhiệm vụ “Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu” trong dự thảo Luật BPVN đã được cơ quan soạn thảo tính toán, cân nhắc xây dựng phù hợp, không chồng chéo với nhiệm vụ quy định tại Điều 14 của Luật An ninh quốc gia. Bên cạnh đó, nhiệm vụ này còn được đặt trong tổng thể mối quan hệ với trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ Biên phòng của cả hệ thống chính trị, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và lực lượng vũ trang... Trong đó, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với tư cách là chủ thể nòng cốt, chuyên trách. Thực tiễn cho thấy, BĐBP đã làm tốt công tác phối hợp với chính quyền địa phương, các lực lượng đứng chân ở biên giới (Công an, Hải quan, Kiểm dịch, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Cảnh sát Biển...) trong bảo đảm an ninh, trật tự ở biên giới, cửa khẩu, duy trì thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới, cửa khẩu và đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với các loại tội phạm, nhất là tội phạm về an ninh quốc gia, ma túy, mua bán người..., góp phần quan trọng ổn định tình hình KVBG, cửa khẩu, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Thứ năm, vấn đề bảo đảm an ninh, trật tự có mối liên hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng; đặc biệt là ở KVBG, cửa khẩu. Ở KVBG, cửa khẩu, hoạt động của BĐBP có cả tính chất quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Vì vậy, khi thực hiện nhiệm vụ nói chung, nhiệm vụ chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự theo chức năng, thẩm quyền nói riêng, BĐBP phải kết hợp chặt chẽ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo đảm an ninh, trật tự với nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng. Thể hiện rõ nét nhất là việc BĐBP phối hợp với Công an, Quân sự trong triển khai thực hiện Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 5-9-2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng.

Chủ trì bảo đảm an ninh, trật tự ở KVBG, cửa khẩu vừa là nhiệm vụ, vừa là hoạt động nghiệp vụ của lực lượng BĐBP. Từ những luận giải trên, việc luật hóa nội dung trên trong dự án Luật BPVN là hợp hiến, hợp pháp, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan, phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đồng thời, bảo đảm tính khả thi của quy định này khi triển khai thực hiện trong cuộc sống.

Tiến sĩ Trần Văn Hiếu

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/ban-ve-nhiem-vu-cua-bdbp-trong-du-an-luat-bien-phong-viet-nam-post433016.html