Bảo đảm cân bằng thị trường tài chính

Theo Quyết định số 1191/QÐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu ổn định, cấu trúc hoàn chỉnh, đồng bộ về các yếu tố cung - cầu; tăng quy mô và chất lượng hoạt động, bảo đảm thị trường hoạt động công khai, minh bạch, hiệu quả và chủ động hội nhập, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Ðây được kỳ vọng là một 'cú huých' quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam, giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tín dụng ngân hàng và chủ động tăng nguồn vốn trung, dài hạn phục vụ tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.

Nhà đầu tư giao dịch tại sàn giao dịch Công ty Chứng khoán Bảo Việt. Ảnh: MINH DŨNG

Gánh nặng tín dụng ngân hàng

Thị trường tài chính (TTTC) bao gồm hai cấu phần: thị trường tiền tệ có chức năng lo toan dòng vốn ngắn hạn và thị trường vốn có chức năng thu xếp dòng vốn trung và dài hạn. Do yếu tố lịch sử, TTTC Việt Nam có sự thiếu cân bằng do thị trường tiền tệ với các định chế ngân hàng đã có quá trình phát triển gần 70 năm, lấn át thị trường vốn mới thật sự phát triển từ năm 2000 trở lại đây.

Số liệu của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (GSTCQG) cho thấy, tính đến cuối năm 2017, cung ứng vốn cho nền kinh tế từ hệ thống tài chính ước khoảng 198% GDP. Trong đó, tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế từ thị trường vốn đạt 35,4%, tỷ trọng cung ứng vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng là 64,6%. Còn theo số liệu của Bộ Tài chính, tại thời điểm cuối năm 2017, tỷ lệ đầu tư trái phiếu Chính phủ chiếm 7,28% tổng tài sản hệ thống ngân hàng, trong khi dư nợ tín dụng chiếm 65% tổng tài sản, tương đương 130% GDP.

5 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của thị trường vốn đã bật lên, giúp TTTC có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM), tăng cường vai trò của thị trường vốn trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Cụ thể, giai đoạn 2012-2017, cung ứng vốn từ thị trường vốn tăng bình quân khoảng 33,4%/năm, gấp hai lần so với mức tăng trưởng cung ứng vốn 16,6%/năm từ hệ thống NHTM. Riêng năm 2017, cung ứng vốn từ hệ thống NHTM tăng 18,1%, từ thị trường vốn tăng 66,4% so với cuối năm 2016. Tuy nhiên, quy mô thị trường vốn, gồm thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu vẫn còn rất nhỏ so với quy mô tín dụng ngân hàng. Phần lớn các doanh nghiệp (DN) chưa nhận thức rõ ràng về thị trường vốn cho nên khi có nhu cầu vay vốn sản xuất, kinh doanh đều nghĩ ngay đến kênh tín dụng ngân hàng trong khi tiếp cận vốn vay không dễ dàng, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

TS Trương Văn Phước, Quyền Chủ tịch Ủy ban GSTCQG nhận định: Quy mô thị trường vốn còn rất hạn chế, chưa thực hiện được chức năng là kênh dẫn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế dẫn đến nhiều năm nay, các NHTM đang phải gánh chức năng này, mặc dù vai trò của NHTM là phục vụ các dòng vốn ngắn hạn. Thực tế này dẫn đến sự phụ thuộc lớn vào hệ thống các NHTM và có thể tạo ra những rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản nếu chu kỳ sản xuất, kinh doanh không thuận lợi, không trả nợ đúng hạn làm phát sinh nợ xấu. Bên cạnh đó, lấy vốn ngắn hạn ngân hàng để đầu tư dự án trung và dài hạn sẽ mất lợi thế cạnh tranh ở chi phí sử dụng vốn.

Tạo đột phá từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp

Trong các giải pháp mở rộng thị trường vốn trung và dài hạn cho Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế tư nhân tập hợp từ một hội thảo diễn ra trung tuần tháng 8 vừa qua, nhiều ý kiến đặc biệt lưu ý đến giải pháp tập trung phát triển thị trường trái phiếu DN (TPDN) như một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế.

Bộ Tài chính cho biết, tính đến cuối năm 2017, thị trường TPDN mới chỉ tương đương 6,9% GDP, thấp hơn nhiều so với mức bình quân khoảng 20%-50% GDP của các nước trong khu vực. Khối lượng phát hành bình quân giai đoạn 2011-2017 khoảng 49 nghìn tỷ đồng/năm. Tình trạng kém phát triển của thị trường TPDN là do thiếu các công cụ, hệ thống cơ bản của một thị trường như chưa có công ty định mức tín nhiệm, chưa có cổng thông tin tập trung, chưa có hệ thống niêm yết và giao dịch…

TS Trương Văn Phước cho rằng, yếu tố quan trọng để phát triển thị trường TPDN là phải bảo đảm công khai, minh bạch thông qua định giá, xếp hạng DN để người phát hành phô bày tất cả ưu, nhược điểm của mình, nhà đầu tư sẽ lựa chọn theo khẩu vị rủi ro. Bên cạnh đó, cần cân chỉnh lại cấu trúc thị trường trái phiếu tổng thể theo hướng trái phiếu Chính phủ (TPCP) phải đa dạng hóa hơn với nhiều kỳ hạn và đặc biệt là phải bảo đảm tính thanh khoản của TPCP.

Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán nhà nước Trần Văn Dũng cho biết, Chính phủ đã có lộ trình để Việt Nam sớm hình thành các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Trong thực tế, đã có DN xin phép đăng ký thành lập hoạt động trong lĩnh vực này. Nhưng quan trọng là tổ chức được thành lập phải có uy tín. Ông Trần Văn Dũng chia sẻ thêm: Theo Ðề án thành lập thị trường TPDN đang được cơ quan này soạn thảo, tất cả thông tin sẽ được tập trung về một đầu mối là Trung tâm thị trường TPDN, nơi công bố các thông tin về việc phát hành và báo cáo tài chính. Ðồng thời sẽ xây dựng sàn giao dịch tập trung để đưa các TPDN lên sàn niêm yết, qua đó nhà đầu tư có thể giao dịch và biết được giá và định giá DN.

Theo Bộ Tài chính, định hướng trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phát triển TPCP trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, từng bước giảm phụ thuộc vào ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN huy động vốn trái phiếu. Cơ quan này vừa trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 90 về phát hành TPDN riêng lẻ, trong đó nới lỏng điều kiện phát hành để tạo thuận lợi cho DN huy động vốn trái phiếu gắn với việc tập trung vào nhà đầu tư có tổ chức, tăng cường cơ chế công bố công khai thông tin của DN phát hành để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.

Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, trong đó có TPDN khi được khơi thông sẽ góp phần giải bài toán mất cân đối của hệ thống tài chính, không chỉ đáp ứng yêu cầu phục vụ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà còn bảo đảm an toàn, lành mạnh tài chính trước những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế.

Phấn đấu đưa dư nợ thị trường trái phiếu đạt khoảng 45% GDP vào năm 2020 và khoảng 65% GDP vào năm 2030. Trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương đạt khoảng 38% GDP vào năm 2020 và khoảng 45% GDP vào năm 2030; dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 7% GDP vào năm 2020 và khoảng 20% GDP vào năm 2030.

(Nguồn: Quyết định số 1191/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)

TÔ HÀ

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/kinhte/thoi_su/item/37710502-bao-dam-can-bang-thi-truong-tai-chinh.html