Bí ẩn cái chết của Đội Cấn

Tư liệu lưu trữ không thống nhất về cái chết của người đứng đầu khởi nghĩa Thái Nguyên, có nơi nói ông bị giết hại, tài liệu khác cho rằng ông tự sát.

Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên - liên minh giữa lực lượng binh sĩ yêu nước ở Trại lính khố xanh do Đội Cấn chỉ huy và lực lượng tù chính trị trong Nhà lao Thái Nguyên do Lương Ngọc Quyến đứng đầu nổ ra đêm 30 rạng sáng ngày 31/8/1917. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang, có tiếng vang lớn nhất ở nước ta trong thời kỳ 1914-1918.

Tài liệu lưu trữ tiếng Pháp ở Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (La Résidence supérieure au Tonkin) hiện lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại (Le Centre des archives nationales d’Outre-Mer) của nước Cộng hòa Pháp ở Aix-en-Provence có 45 hồ sơ, (một số hồ sơ có chung một tiêu đề:“Révolte des militaires et des prisonniers de Thái Nguyên” - Khởi nghĩa của các binh sĩ và tù nhân ở Thái Nguyên) cung cấp rất nhiều thông tin về cuộc khởi nghĩa trong đó có cái chết của Đội Cấn.

Người thủ lĩnh đứng ra viết lời hiệu triệu dân chúng

Lực lượng tham gia khởi nghĩa gồm liên minh giữa lực lượng binh sĩ yêu nước ở Trại lính khố xanh do Đội Cấn, tức Trịnh Văn Cấn chỉ huy và lực lượng tù chính trị trong Nhà lao Thái Nguyên (phần lớn là những người đã tham gia vào các phong trào yêu nước như: Phong trào Đông Du, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, khởi nghĩa Việt Nam quang phục hội…) do Lương Ngọc Quyến (con trai của Cử Can tức Lương Văn Can) đứng đầu.

Cổng Trại lính khố xanh tỉnh Thái Nguyên, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917. Ảnh tư liệu.

Cổng Trại lính khố xanh tỉnh Thái Nguyên, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917. Ảnh tư liệu.

Ngoài hai lực lượng chính là các binh sĩ và các tù nhân chính trị phạm còn có một số nhân dân địa phương được giác ngộ, 50 công nhân làm ở mỏ than Phấn Mễ và mỏ kẽm Lang Hít.

Các thủ lĩnh của hai lực lượng chính đã liên lạc, móc nối với nhau để bàn bạc, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa; về tinh thần có: Cờ nền màu vàng với năm ngôi sao đỏ, Quốc hiệu lấy tên là “Đại Hùng”.

Đội Cấn chịu trách nhiệm viết lời hiệu triệu dân chúng để kêu gọi lòng yêu nước và sự ủng hộ của nhân dân với nghĩa quân và cuộc khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31/8/1917. Sau nhiều ngày chiến đấu, nghĩa quân đã giành được chính quyền, làm chủ tỉnh lị Thái Nguyên trong một tuần lễ (từ 30/8 đến 5/9/1917).

Điện báo số 198 trong hồ sơ số 36.247 Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ở Pháp viết: “Các tù nhân đã giết chết viên đội trưởng coi tù, cướp kho vũ khí trong đó có khoảng 200 đến 300 khẩu súng và 40.000 viên đạn, giải thoát 300 tù nhân”.

Báo cáo ngày 1/9/1917 của Funck, thiếu tá chỉ huy quân sự ở Tuyên Quang, viết: “Đồn Hương Sơn bị một nhóm tù nhân khoảng 300 tay súng tấn công suốt từ 3 giờ sáng đến 7 giờ tối ngày 5/9/1917”.

Trịnh Văn Cấn ( Đội Cấn) và Lương Ngọc Quyến (bên phải). Ảnh tư liệu

Thực dân Pháp vô cùng hoảng sợ, chúng huy động lực lượng quân sự lớn gồm 1.086 sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính người Âu, 1.626 hạ sĩ quan ngụy tổng cộng là 2.712 tên và 1.139 lính tập, lính dõng, một mạng lưới chức dịch, quan lại người Việt từ cấp xã đến cấp tỉnh ở Thái Nguyên và một số tỉnh lân cận.

Ngoài quân đội, Pháp còn huy động, trưng dụng nhiều ôtô, tàu thủy để tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa. Do lực lượng chênh lệch nên cuộc khởi nghĩa sớm bị đàn áp, Lương Ngọc Quyến hy sinh.

Cái chết của Đội Cấn

Ngày 26/12/1917, Đội Cấn bị thương rất nặng ở chân trong trận giao chiến với quân Pháp ở núi Pháo (Đại Từ, Thái Nguyên), lúc này có 21 nghĩa sĩ cùng chiến đấu với ông.

Ngày 4/1/1918, một số nghĩa sĩ gồm 16 người rời núi Pháo đi nơi khác để lại 4 người với Đội Cấn để chăm sóc ông. Nhóm 4 người này đưa Đội Cấn đi về phía Tây Bắc Hưng Sơn.

Vết thương của Đội Cấn bị hoại tử rất nặng, ông biết mình không thể sống được nên bí mật bắn một viên đạn vào bụng từ khẩu súng lục của mình tự sát để cho đồng đội không phải chăm lo cho mình và nhất là để không bị rơi vào tay quân Pháp khi còn sống. Đồng đội chôn ông cùng 3 khẩu súng trường và khẩu súng lục của ông. Tuy nhiên, cái chết của Đội Cấn cũng còn nhiều nghi vấn, chưa rõ thực sự ông bị chết như thế nào?

Dinh Công sứ Pháp tại Thái Nguyên. Ảnh tư liệu

Hồ sơ 36.258 Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ở Pháp có báo cáo của thiếu tá Salel như sau: Vào lúc 10 giờ sáng ngày 11/1/1918, Công sứ Pháp Poulin ở Thái Nguyên (Résident de France à Thái Nguyên) đưa đến một người tên là Nguyễn Văn Sỹ ra đầu hàng quân Pháp quê ở Xã Hạ - Vĩnh Yên.

Người này khai đã giết Đội Cấn ngày 5/1/1918 ở núi Pháo sau đó anh ta đã trốn đi, nay đến để đầu hàng quân Pháp, khai giết Đội Cấn để mong lĩnh thưởng. Hắn khai như sau: Hắn nấp cách Đội Cấn khoảng 3 m rồi bắn 2 viên đạn vào Đội Cấn sau đó hắn im lặng theo dõi. Sau khi trúng đạn, Đội Cấn cố gắng đứng lên cầm lấy súng bắn về phía đối phương; thấy Đội Cấn đứng dậy tên Sỹ bắn tiếp lần thứ hai vào Đội Cấn, hắn thấy Đội Cấn ngã xuống, không động đậy. Tên Sỹ đào hố chôn xác Đội Cấn, quấn bằng một cái chăn, chôn cùng ba khẩu súng trường sau đó hắn xuống núi vào lúc 6 giờ sáng.

Tên Sỹ nói hắn bắn Đội Cấn là để trả thù cho anh trai của hắn là Xã Đoan của thôn Hoàng Xa bị bắt ngày 18/9/1917 theo lệnh của Đội Cấn khi đoàn quân của ông đi qua vùng này. Tên Sỹ đã giả vờ tình nguyện đi theo đoàn quân của Đội Cấn để chờ dịp trả thù.

Thiếu tá Salel đã đi cùng Công sứ Thái Nguyên Poulin đến nơi tên Sỹ khai chôn xác Đội Cấn, cho đào lên để xác minh và thấy: Đội Cấn mặc quần kaki, áo veston màu xanh, đầu đội mũ phớt màu đen, tay phải còn cầm khẩu súng lục tự động đã bắn một viên, thân thể có nhiều vết thương:

- Một vết thương ở chân trái, phía trên đầu gối rất nặng. Đây là vết thương trong trận giao chiến với quân Pháp hôm 26/12/1917 ở núi Pháo.

- Vết thương thứ hai ở dạ dày do một viên đạn cỡ nhỏ bắn.

Chôn theo xác còn 3 khẩu súng trường trong đó hai khẩu đã hết đạn, một khẩu súng lục còn một băng đạn, đã bắn một viên, vỏ đạn văng ra và còn ở cạnh đó.

Báo cáo số 121 ngày 16/01/1918 của Poulin, Công sứ Pháp ở Thái Nguyên gửi Thống sứ Bắc Kỳ trong hồ sơ 36.258 như sau:

“Theo biên bản khám nghiệm tử thi thấy rằng hầu như cái chết của Đội Cấn không phải là kết quả của sự trả thù, không đúng như lời khai của tên Sỹ.

Poulin cho rằng: “Thật khó tin nếu cái chết đó là một sự trả thù khi sự chôn cất và mai táng, mộ phần của Đội Cấn lại được chăm sóc và thực hiện các nghi lễ rất nghiêm túc, chỉnh tề, chu đáo”, cụ thể:

- Thi thể Đội Cấn được liệm bằng tấm vải thêu, bên ngoài bó bằng một cái chăn, ngoài cùng là chiếu. Đầu ông đội mũ, tay phải cầm khẩu súng lục.

- Chi tiết thứ hai là: Nếu chỉ một người thực hiện các công việc chôn cất thì không thể chu đáo như vậy và không thể với một con dao lại có thể đào để chôn cất như vậy; một chi tiết nữa cũng rất không bình thường là: Trên mộ Đội Cấn còn vương lại các đồ cúng chưa đốt hết.... Poulin cho rằng lời khai của tên Nguyễn Văn Sỹ bộc lộ nhiều chi tiết không đúng, bịa đặt, hoang đường và như vậy không thể tin và không thể thưởng cho tên Sỹ được”.

Cái chết của Đội Cấn cụ thể như thế nào thì chưa thể khẳng định được, tuy nhiên điều khẳng định đã được phía Pháp công nhận đó là ông đã chết trong trận chiến đấu với quân Pháp trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên.

Đinh Hữu Phượng - Minh Châu

Nguồn Znews: http://news.zing.vn/bi-an-cai-chet-cua-doi-can-post966128.html