Bộ đội Biên phòng thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới, cửa khẩu

Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV xác định: Bộ đội Biên phòng (BĐBP) có chức năng tham mưu cho Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước chính sách, pháp luật về biên phòng; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật (Khoản 2, Điều 13). Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chức năng, nhiệm vụ của BĐBP trong tình hình mới.

Trung tướng Đỗ Danh Vượng. Ảnh: Đức Mạnh

Trung tướng Đỗ Danh Vượng. Ảnh: Đức Mạnh

Ngay từ những ngày đầu thành lập lực lượng, Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 19-11-1958 của Bộ Chính trị về xây dựng lực lượng Cảnh vệ nội địa và biên cương đã khẳng định: “Lực lượng cảnh vệ này có nhiệm vụ trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng nước ngoài xâm nhập phá hoại nước ta, luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an ninh biên giới, bờ bể, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn cho các cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng”.

Sau gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, ngày 8-8-1995, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) tiếp tục ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về xây dựng BĐBP trong tình hình mới; Nghị quyết đã xác định: “Nhiệm vụ biên phòng trong tình hình mới rất toàn diện và phức tạp, bao gồm: bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, chống xâm nhập trái phép và chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên của đất nước; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với các nước láng giềng”.

Đây là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp... trong đó, BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Đặc biệt, Thông báo số 165-TB/TW ngày 22-12-2004 của Ban Chấp hành Trung ương, thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức BĐBP đã chỉ rõ: “Bảo đảm cho BĐBP thực hiện tốt ba chức năng quản lý nhà nước về an ninh, quốc phòng và đối ngoại ở khu vực biên giới; trong thời bình là quản lý biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác thân thiện với các nước láng giềng; khi có chiến tranh hoặc xung đột biên giới, thực hiện tốt nhiệm vụ tác chiến phòng thủ được phân công trong thế trận phòng thủ chung trên địa bàn”.

Xứng đáng với trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, ngay từ khi mới thành lập, với trang bị thô sơ, cơ sở vật chất thiếu thốn, hoạt động ở những địa bàn xa xôi, hẻo lánh, khí hậu thất thường, thiên tai khắc nghiệt; tiếp nhận quản lý, bảo vệ dải biên cương rộng lớn, núi rừng hiểm trở, tuyến biển, hải đảo xa xôi, giới tuyến quân sự tạm thời và đảm nhiệm công tác bảo vệ nội địa với hàng trăm mục tiêu quan trọng... với muôn vàn khó khăn, thử thách, nhưng BĐBP đã tỏ rõ bản chất của một đội quân cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, cùng với triển khai lực lượng quản lý, bảo vệ tuyến biên giới, bờ biển, hải đảo phía Nam, lực lượng BĐBP phải trực tiếp chiến đấu trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (1977 - 1978) và bảo vệ biên giới phía Bắc (năm 1979). Trong hai cuộc chiến tranh biên giới, cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã nêu cao ý chí ngoan cường, dũng cảm, vận dụng sáng tạo các cách đánh để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, hiệp đồng tác chiến với các lực lượng vũ trang, phản công địch, giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.

Từ năm 1986 đến nay, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP đã tích cực, chủ động tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác biên phòng, như: Pháp lệnh BĐBP năm 1997; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Nghị định số 89/2009/NĐ-CP ngày 19-10-2009 của Chính phủ về hoạt động đối ngoại Biên phòng; Nghị định số 112/2014/NĐ-CP ngày 21-11-2014 của Chính phủ Quy định về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền; Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29-4-2014 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định số 71/2015/NĐ-CP ngày 3-9-2015 của Chính phủ về quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biên giới biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 9-1-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới; đặc biệt là Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và nhiều văn bản khác...

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực đổi mới tư duy lý luận về công tác biên phòng; đổi mới chủ trương, đối sách đấu tranh với các loại đối tượng; điều chỉnh thế bố trí, sử dụng lực lượng, phương tiện, sẵn sàng chiến đấu trong khu vực phòng thủ; đổi mới các biện pháp công tác biên phòng; tăng cường quan hệ phối hợp với các ban, ngành, lực lượng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia..., nhờ đó, các đơn vị đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, nhất là trong bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền, an ninh biên giới của Tổ quốc; đấu tranh có hiệu quả với các đối tượng gián điệp, phản động, các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội với những thành tích nổi bật trong đấu tranh với các tội phạm buôn lậu, ma túy, mua bán người...

Công tác đối ngoại biên phòng được tổ chức thường xuyên, trở thành điểm sáng trong đối ngoại quân sự, quốc phòng, với những phong trào, mô hình sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, phục vụ tốt chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước và Quân đội.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch bên ngoài vẫn ráo riết tiến hành “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo, nhất là trên Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Trên các tuyến biên giới, vùng biển, hoạt động của các loại tội phạm diễn biến phức tạp, với những phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt; nhất là tội phạm có tổ chức, có yếu tố nước ngoài, tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao; các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt... đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Tình hình thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là dịch Covid-19 đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, tính mạng, sức khỏe của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ.

Để tiếp tục thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, lực lượng BĐBP cần tiếp tục nêu cao trách nhiệm chính trị, đoàn kết, thống nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quyết liệt, đồng bộ các nội dung, biện pháp cơ bản sau:

Một là, thường xuyên nắm, nghiên cứu, dự báo sát, đúng, toàn diện tình hình từ sớm, từ xa có tác động đến nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới cả chiều rộng, chiều sâu; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia, phá hoại an ninh trật tự khu vực biên giới, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng các chủ trương, chính sách phù hợp xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, lan rộng, kéo dài, gây mất ổn định khu vực biên giới, biển, đảo.

Hai là, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành và các cấp chính quyền triển khai thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới đã ký với các nước láng giềng; trong đó, chú trọng triển khai thực hiện trên thực tế 2 văn kiện pháp lý về biên giới trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia, đồng thời, tiếp tục tham mưu và tham gia đàm phán phân giới, cắm mốc 16% còn lại trên tuyến này. Thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát đường biên giới, mốc quốc giới, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm quy chế biên giới; tăng cường quản lý, kiểm soát cửa khẩu, lối mở trên biên giới; tiếp tục cải cách hành chính, thực hiện thủ tục Biên phòng điện tử tại các cửa khẩu, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh Covid-19, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, công nghệ cao, công nghệ thông minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Ba là, tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, các kế hoạch, phương án bảo đảm an ninh, trật tự trên các tuyến biên giới, vùng biển, nhất là ở các địa bàn trọng điểm; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả hoạt động phá hoại của các tổ chức phản động lưu vong xâm nhập; tham mưu, phối hợp với các lực lượng xử lý kịp thời các vụ việc phức tạp về dân tộc, tôn giáo, an ninh nông thôn, không để xảy ra các “điểm nóng” ở khu vực biên giới. Đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, nhất là tội phạm về ma túy, buôn lậu, mua bán người; tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, xuyên biên giới, giữ vững an ninh, trật tự ở khu vực biên giới.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng và ngoại giao nhân dân bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú, linh hoạt, sáng tạo, góp phần bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ biên giới nói riêng từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Thực hiện tốt Đề án của Chính phủ về “Tăng cường hợp tác, phối hợp quản lý biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng”, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tích cực, chủ động tham mưu cho Bộ Quốc phòng tổ chức tốt các chương trình “Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc”; “Giao lưu hữu nghị biên giới Việt Nam - Campuchia”; “Giao lưu Biên cương thắm tình hữu nghị”.

Năm là, quán triệt, chấp hành nghiêm túc đường lối, quan điểm, các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh về nhiệm vụ quốc phòng - quân sự; tích cực huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu, tham gia xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc ở khu vực biên giới. Chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân” làm cơ sở, nền tảng xây dựng thế trận biên phòng toàn dân ổn định trong thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới. Chủ động nghiên cứu, hoàn thiện các phương thức đấu tranh vũ trang khi kẻ thù sử dụng vũ khí công nghệ cao gây chiến tranh xâm lược, chiến tranh cục bộ, xung đột biên giới, tranh chấp chủ quyền vùng biển, đảo; nghiên cứu hoàn thiện phương thức đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch. Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.

Trung tướng Đỗ Danh Vượng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy BĐBP

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/bo-doi-bien-phong-thuc-hien-quan-ly-nha-nuoc-ve-quoc-phong-an-ninh-doi-ngoai-o-khu-vuc-bien-gioi-cua-khau-post434891.html