Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

TS. PHẠM NGỌC TOÀN (Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh) và ThS. NGUYỄN THÀNH LONG (Trường Cao đẳng Giao thông vận tải trung ương VI)

TÓM TẮT:

Các hành vi đầu tư cá nhân liên quan đến các lựa chọn mua chứng khoán cho tài khoản của chính mình. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu được tiến hành trên quy mô mẫu 192 nhà đầu tư cá nhân. Để thu thập dữ liệu, tác giả đã sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc và xử lý bằng phần mềm SPSS. Phương pháp nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng. Kỹ thuật phân tích bao gồm thống kê mô tả, kiểm tra độ tin cậy thang đo, phân tích EFA, hồi quy tuyến tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy 5 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân: (1) Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính; (2) Hình ảnh công ty; (3) Ý kiến của các nhà tư vấn; (4) Tâm lý đám đông; (5) Sự tự tin thái quá. Cuối cùng, nghiên cứu này gợi ý một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ khóa: Hành vi của nhà đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.

1. Giới thiệu

Theo thống kê của Trung tâm Lưu ký chứng khoán VN (VSD), số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư tính đến ngày 31/01/2018 là 1.950.626 tài khoản. Trong đó, số tài khoản của nhà đầu tư cá nhân trong và ngoài nước là 1.939.205 tài khoản (chiếm tỷ lệ áp đảo 99,41%), số còn lại là của nhà đầu tư tổ chức. Nhà đầu tư cá nhân là những cá nhân có vốn tạm thời nhàn rỗi, họ tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận (Nguyễn Đức Hiển, 2012). Tuy tham gia với số lượng lớn, nhưng với nhiều đặc điểm như vốn đầu tư nhỏ, nên mức độ đa dạng hóa danh mục đầu tư thấp, quy mô và khối lượng giao dịch không lớn như các nhà đầu tư tổ chức. Nhà đầu tư cá nhân thường không có chiến lược đầu tư dài hạn và theo các triết lý đầu tư cụ thể, dễ bị tác động và bị tổn thương.

Do đó, bài viết hướng đến việc nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu nhằm giúp nhà đầu tư nâng cao hiệu quả trong việc ra quyết định đầu tư và cũng gợi ý cho các công ty niêm yết trong việc trình bày và cung cấp thông tin minh bạch trên báo cáo tài chính phục vụ cho nhiều đối tượng trong đó có các nhà đầu tư cá nhân.

2. Cơ sở lý thuyết, mô hình và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết và mô hình đề xuất 2.2.1. Lý thuyết triển vọng

Lý thuyết triển vọng thuộc tài chính học hành vi là lĩnh vực tài chính sử dụng các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những hiện tượng bất thường trên thị trường tài chính. Theo lý thuyết triển vọng của Kahneman and Tverskys (1979), nhà đầu tư có khuynh hướng xem khả năng bù đắp một khoản lỗ quan trọng hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận. Khi khoản đầu tư có khuynh hướng mang lại lợi nhuận, nhà đầu tư thường nắm chắc ngay cơ hội có lợi nhuận hiện tại hơn là cố gắng tiếp tục đầu tư để có lợi nhuận nhiều hơn trong tương lai. Nhưng ngược lại, khi khoản đầu tư có nguy cơ bị thua lỗ, nhà đầu tư lại cố gắng duy trì với hy vọng sẽ nhận được khoản lời trong tương lai, mặc dù lúc này rủi ro là rất cao. Điều này đã giải thích được xu hướng mua bán cổ phiếu của nhà đầu tư: bán quá nhanh khi có lời và nắm giữ cổ phiếu lỗ quá lâu.

2.2.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Akerlof (1970) lần đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch, đồng thời bên có nhiều thông tin sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện các giao dịch.

Trên thị trường chứng khoán, đối với phần lớn nhà đầu tư, sự quan tâm hàng đầu của họ là lợi nhuận. Nhà đầu tư thường có ít thông tin về doanh nghiệp hơn nhà quản lý nên có thể có những bất lợi hơn so với nhà quản lý. Do đó, nếu nhà đầu tư không xác định chính xác lợi nhuận kỳ vọng của công ty niêm yết thì sẽ định giá cổ phiếu không chính xác và nếu định giá cao hơn giá trị thực của cổ phiếu thì sự bất lợi hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư trong việc ra các quyết định đầu tư.

2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh như sau a- Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính:

Thông tin báo cáo tài chính của công ty niêm yết là một trong những cơ sở quan trọng không thể thiếu cho việc đưa ra các quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán nói riêng. Nagy and Obenberger (1994) cho rằng khi thị trường chứng khoánTTKT của các doanh nghiệp được công bố đầy đủ thì các nhà đầu tư cá nhân sẽ có niềm tin hơn về doanh nghiệp, khi đó xu hướng đầu tư sẽ càng cao. Cùng quan điểm ấy, Mouna and Anis (2013) cho rằng một thị trường vốn hoạt động có hiệu quả cần cung cấp những báo cáo tài chính chất lượng để giúp các nhà đầu tư “tự tin trong việc đưa ra các quyết định đầu tư”.

Giả thuyết H1 được đưa ra là: Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Tp.HCM.

b- Hình ảnh công ty:

Epstein, (1994) đã kiểm tra nhu cầu thông tin xã hội của các nhà đầu tư cá nhân. Kết quả cho thấy các công ty có hình ảnh tốt về đạo đức công ty, quan hệ nhân viên và sự tham gia của cộng đồng về uy tín chất lượng sản phẩm và trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tích cực đến quyết định của các nhà đầu tư cá nhân.

Giả thuyết H2 được đưa ra là: Hình ảnh công ty ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư của nhà đầu tưcá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

c- Ý kiến của các nhà tư vấn:

Malmendier và Shanthikumar, (2003) cho rằng các nhà giao đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư từ các khuyến nghị tích cực từ các nhà tư vấn, bao gồm cả các nhà phân tích. Krishnan và Booker, (2002) phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư sử dụng các khuyến nghị của nhà phân tích để đưa ra quyết định ngắn hạn để nắm giữ hoặc bán cổ phiếu. Các kết quả chỉ ra rằng một dạng báo cáo giới thiệu tóm tắt của nhà phân tích tốt sẽ là một thông tin bổ sung hỗ trợ tích cực cho việc ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân.

Giả thuyết H3 được đưa ra là: Các ý kiến của các nhà tư vấn ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

d- Tâm lý đám đông:

Tâm lý đám đông không chỉ giới hạn ở những nhà đầu tư có kinh nghiệm mà sẽ xuất hiện trong những tình huống không chắc chắn và mơ hồ. Trong những tình huống như vậy, hành động theo đám đông sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy an tâm hơn (Ghosh and Ray, 1997). Như vậy, tâm lý đám đông luôn tồn tại trong quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư không phân biệt là có kinh nghiệm hay không. Đặc biệt, tâm lý đám đông được thể hiện rõ khi nhà đầu tư bị buộc phải đưa ra quyết định nhanh chóng, chưa có đầy đủ thông tin cần thiết.

Giả thuyết H4 được đưa ra là: Tâm lý đám đông ảnh hưởng tích cực đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

e- Sự tự tin thái quá:

Hầu hết các nhà đầu tư quá tự tin thường đánh giá cao bản thân của mình hơn những gì người khác đánh giá và thường phóng đại sự hiểu biết của mình (Fischhoff et al., 1977). Odean (1998) cho rằng, sự tự tin của nhà đầu tư có liên quan đến hành vi đầu tư của họ, cụ thể là những nhà đầu tư quá tự tin sẽ giao dịch nhiều hơn những nhà đầu tư khác. Những nhà đầu tư quá tự tin thường ít tham khảo ý kiến từ những nguồn khác, luôn cho rằng quyết định của họ đúng đắn nên đôi khi dẫn đến những sai lầm do chủ quan.

Giả thuyết H5 được đưa ra là: Sự tự tin thái quá ảnh hưởng tích cực đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

Căn cứ vào các nghiên cứu trước và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam thông qua thảo luận chuyên gia. Tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh gồm có 5 biến độc lập là: Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính, hình ảnh công ty, ý kiến của các nhà tư vấn, tâm lý đám đông, sự tự tin thái quá và một biến phụ thuộc là quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân.

2.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành qua hai giai đoạn chính: (1) Nghiên cứu định tính nhằm xây dựng và hoàn chỉnh bảng câu hỏi khảo sát theo thang đo; (2) Nghiên cứu định lượng nhằm thu thập, phân tích dữ liệu khảo sát và kiểm định các giả thiết của mô hình.

Phương pháp chọn mẫu: Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên. Theo Tabachnick& Fidell (2007), khi dùng MLR (Hồi quy bội), kích thước mẫu n nên được tính bằng công thức sau: n ≥ 50 +8p (p: số lượng biến độc lập). Số mẫu được chọn trong bài nghiên cứu là 192 mẫu là phù hợp.

Tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước bao gồm 5 nhân tố như sau:

Y = β + β1X1+ β2X2+ β3X3+ β4X4+ β5X5+ μ

Trong đó: β là Hằng số, X1 là Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính, X2 là Hình ảnh công ty, X3 là Ý kiến của các nhà tư vấn, X4 là Tâm lý đám đông, X5 là Sự tự tin thái quá, X6 là Quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, μlà Sai số các yếu tố không quan sát được.

3. Kết quả nghiên cứu

Sau khi kiểm định độ tin cậy của các thang đo của các biến độc lập và biến phụ thuộc. Tác giả đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính như sau:

Bảng 3.1 cho thấy, giá trị hệ số R2 = 0.627> 0.5, do vậy, đây là mô hình thích hợp để sử dụng đánh giá mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập. Ngoài ra, giá trị hệ số R2 hiệu chỉnh là 0.623, nghĩa là mô hình hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với dữ liệu 62.3%.

Căn cứ vào Bảng 3.2, phương trình hồi qui tuyến tính bội của các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh với các hệ số chuẩn hóa như sau:

Y = 1.280+0.261X1+0.312X2+ 0.334X3 + 0.246X4 + 0.194X5

Kết luận: Mục đích của nghiên cứu này là xác định và đo lường mức ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

Về kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra được 5 nhân tố có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân với mức độ tác động theo thứ tự từ cao đến thấp như sau: Ý kiến của các nhà tư vấn, hình ảnh công ty, tâm lý đám đông, chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính, sự tự tin thái quá.

4. Kiến nghị

Kết quả nghiên cứu cho thấy 5 nhân tố của mô hình nghiên cứu đều có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh. Để nâng cao hiệu quả các quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thì các nhà đầu tư cần cải thiện các hành vi đầu tư thông qua các nhân tố như tâm lý đám đông, sự tự tin thái quá, tham khảo ý kiến tư vấn và các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh cần nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính và hình ảnh công ty.

Các nhà đầu tư cá nhân cần nâng cao trình độ đọc hiểu và phân tích thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết, đồng thời cải thiện các yếu tố tâm lý trong đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả các quyết định đầu tư hơn. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần tăng cường giám sát việc công bố thông tin của các công ty niêm yết ngày càng tăng tính minh bạch nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng sử dụng trong đó có các nhà đầu tư cá nhân ■

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Akerlof, G. (1970). VThe Market for Lemons: Qualitative Uncertainty and the Market MechanismV. Quarterly Journal of Economics, 84(3).

2. Epstein, M.J. (1996) “Social disclosure and the individual investor”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol.4. Malmendier và Shanthikumar, (2003).

3. Fischhoff, B. ,Lichtenstein, S., & Phillips, L. D. (1977). Calibration of probabilities: The state of the art. In Decision making and change in human affairs (pp. 275-324). Springer, Dordrecht.

4. Ghosh, S. K., Ray, P., Zhang, D. H., & Ray, A. (1997). Repression of interleukin-6 gene expression by 17-estradiol. FEBS letters, 409(1), 79-85.

5. Krishnan,R.and Booker,D.M. (2002) “Investors use of Analysts recommendations”, Behavioral Research in Accounting, Vol. 14.

6. Mouna, A., & Anis, J., (2015). Financial literacy and portfolio diversification: An observation from the Tunisian stock market. International Journal of Bank Marketing, 33(6), 808-822.

7. Nguyễn Đức Hiển (2012). Hành vi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam (Doctoral dissertation, Đại học Kinh tế quốc dân). Kahneman, D., & Tversky, A. (1984). Choices, values, and frames. American psychologist, 39(4), 341.

8. Nagy, R. A., & Obenberger, R. W. (1994). Factors influencing individual investor behavior. Financial Analysts Journal, 50(4), 63-68.

9. Odean, T. (1998). Are investors reluctant to realize their losses?. The Journal of finance, 53(5), 1775-1798.

10. Tabachnick, B. G., & Fidell, L. S. (2007). Using multivariate statistics. Allyn & Bacon/Pearson Education.

FACTORS INFLUENCING THE INVESTMENT DECISION OF INDIVIDUAL INVESTORS ON HO CHI MINH CITY STOCK EXCHANGE

● PhD. PHAM NGOC TOAN

University of Economics Ho Chi Minh City

● MA. NGUYEN THANH LONG

Central Transportation College VI

ABSTRACT:

Individual investment behaviors involve buying stock options for their own accounts. The objective of the study was to determine the factors influencing the investment decisions of individual investors on the Ho Chi Minh City Stock Exchange. The study was conducted on a sample of 192 individual investors. For data collection, the author used a structured and processed questionnaire with SPSS software. Methods of qualitative and quantitative research. Analytical techniques included descriptive statistics, scale reliability tests, EFA analysis, linear regression. Research results showed that 5 factors affected the investment decision of individual investors: (1) The quality of information in the financial report; (2) company image; (3) Opinion of consultants; (4) crowd psychology; (5) Overconfidence. Finally, this study suggested some recommendations to improve the investment decision making of individual investors on the Ho Chi Minh City Stock Exchange.

Keywords: Investor behavior, factors influencing investment decisions.

Nguồn Tạp chí Công thương: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cac-nhan-to-anh-huong-den-quyet-dinh-dau-tu-cua-cac-nha-dau-tu-ca-nhan-tren-thi-truong-chung-khoan-thanh-pho-ho-chi-minh-58301.htm