Cách thức nào hiệu quả?

Để cắt giảm việc kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) cần thực hiện quyết liệt giải pháp chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, kiểm tra hàng hóa tại nguồn, xây dựng hồ sơ chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp (DN).

Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL), Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) xung quanh vấn đề hậu kiểm đối với hàng hóa XNK.

Ông Nguyễn Hoàng Linh.

Phóng viên (PV): Ông đánh giá thế nào về công tác chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đối với hàng hóa XNK hiện nay mà các bộ, ngành đang triển khai?

Ông Nguyễn Hoàng Linh: Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt, đặt ra chỉ tiêu cụ thể yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan liên quan chuyển đổi cơ chế từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Thực hiện chủ trương đó không những giúp giảm thấp nhất chi phí, mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN nói riêng và quốc gia nói chung. Với sự chỉ đạo của Chính phủ, tất cả các bộ, ngành đều vào cuộc và có chuyển biến tích cực. Cuối năm 2017, Bộ KH&CN được Chính phủ giao chủ trì việc này và Tổng cục TCĐLCL đã tổ chức cuộc họp với 12 bộ quản lý ngành, lĩnh vực để rà soát sản phẩm hàng hóa nhóm 2 có nguy cơ rủi ro thấp để chuyển sang hậu kiểm.

Tuy nhiên, đối với những sản phẩm có nguy cơ gây mất an toàn và khả năng gây rủi ro cao cho cộng đồng, môi trường và xã hội thì vẫn cần phải tiền kiểm trước khi nhập khẩu, ví như mặt hàng xăng dầu. Do vậy, đối với những mặt hàng có nguy cơ rủi ro cao thì phải tăng cường kiểm soát, mục tiêu là hàng hóa nhập vào Việt Nam phải bảo đảm an toàn.

Lực lượng chức năng kiểm tra hàng hóa tại Cửa khẩu Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài. Ảnh: HOÀNG GIANG

PV: Theo ông, những khó khăn mà DN gặp phải khi thực hiện các thủ tục kiểm tra chuyên ngành là gì?

Ông Nguyễn Hoàng Linh: Thực tế trước đây, khi các quy định về kiểm tra chuyên ngành rất chặt chẽ, yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra không chỉ về chất lượng mà còn kiểm tra chuyên ngành khác, như: Kiểm dịch, hiệu suất năng lượng, an toàn thực phẩm… dẫn đến việc đội chi phí cho DN. Đến nay, tôi nghĩ việc này đã được cải thiện. Ví dụ, về phía Bộ KH&CN đã chuyển tới 91% nhóm sản phẩm hàng hóa (SPHH) do bộ quản lý sang cơ chế hậu kiểm, giảm 96% số lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra trước thông quan, giảm rất nhiều chi phí cho DN. Bên cạnh việc kiểm tra theo lô, còn có một cơ chế đánh giá chất lượng SPHH khác cũng tiết giảm rất nhiều chi phí mà DN cần lưu ý là đánh giá tại nguồn.

PV: Ông có thể chia sẻ cách triển khai cũng như kinh nghiệm đổi mới công tác quản lý hàng hóa XNK khi chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm?

Ông Nguyễn Hoàng Linh: Trước đây, rất nhiều DN, cơ quan liên quan phản ánh với chúng tôi rằng chưa rõ cách thực hiện cơ chế hậu kiểm. Cho nên năm 2017, chúng tôi đã nghiên cứu và tạo ra một cơ chế hậu kiểm chung cho toàn bộ nhóm SPHH, là căn cứ cơ sở để các bộ, ngành áp dụng vào từng nhóm SPHH cụ thể. Bên cạnh đó, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ KH&CN cùng với nỗ lực của Tổng cục TCĐLCL và các đơn vị trực thuộc bộ đã “chuyển mạnh sang hậu kiểm” đối với hàng hóa nhập khẩu. Cụ thể, đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ KH&CN ban hành Thông tư số 07 để chuyển 91% nhóm SPHH do bộ quản lý sang cơ chế hậu kiểm, cắt giảm từ 24 xuống còn 2 nhóm SPHH phải kiểm tra trước thông quan.

PV: Thời gian tới, Bộ KH&CN cần triển khai giải pháp nào nhằm thực hiện tốt hơn nữa việc quản lý hàng hóa XNK?

Ông Nguyễn Hoàng Linh: Thứ nhất, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền cho doanh nghiệp cũng như các bộ, ngành áp dụng các cơ chế quản lý rủi ro đối với các sản phẩm. Điều này liên quan đến Nghị định 74 của Chính phủ quy định SPHH dựa trên mức độ rủi ro cũng như mức độ tuân thủ của DN về quản lý chất lượng. Bên cạnh đó, cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành triển khai tốt Nghị định 78 của Chính phủ vừa ban hành về việc thúc đẩy xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với SPHH nhóm 2, trong đó chú trọng tới việc làm rõ cơ chế kiểm tra chuyên ngành dựa trên mức độ rủi ro nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần phải nghiên cứu, tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật về chất lượng SPHH, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các văn bản quản lý chất lượng SPHH của các bộ, ngành để tiếp tục tìm ra những vấn đề còn tồn tại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh.

Tiếp nữa là việc xã hội hóa các hoạt động đánh giá sự phù hợp; mặc dù Bộ KH&CN thời gian vừa qua đã làm tốt công tác xã hội hóa, chỉ định 70 tổ chức đánh giá sự phù hợp khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động này cần phải được lan tỏa tới các bộ, ngành khác để DN có nhiều cơ hội lựa chọn các tổ chức đánh giá sản phẩm của mình. Đặc biệt, đẩy mạnh các hoạt động thừa nhận tiêu chuẩn của các tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước và nước ngoài. Triển khai cơ chế đánh giá tại nguồn đối với những SPHH nhập khẩu nhiều vào Việt Nam, tạo điều kiện cho DN cũng như thúc đẩy áp dụng cơ chế một cửa quốc gia.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

LA DUY (thực hiện)

Nguồn QĐND: http://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/cach-thuc-nao-hieu-qua-544033