Cần nghiên cứu thấu đáo việc giảm giờ làm việc

Thời giờ làm việc, nghỉ ngơi là vấn đề lớn trong bộ luật lao động của tất cả các nước trên thế giới. Ðây cũng luôn là vấn đề được người lao động (NLÐ) quan tâm nhất.

Thời giờ làm việc, nghỉ ngơi là vấn đề lớn trong bộ luật lao động của tất cả các nước trên thế giới. Ðây cũng luôn là vấn đề được người lao động (NLÐ) quan tâm nhất.

Theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Việt Nam đang có thời giờ làm việc hằng tuần thuộc nhóm cao nhất thế giới. Cụ thể, khảo sát đối với 154 nước và vùng lãnh thổ của ILO, Việt Nam nằm trong nhóm nước có thời giờ làm việc bình thường theo tuần cao nhất thế giới (từ 48 giờ/tuần trở lên). Về thời gian nghỉ phép, Việt Nam lại nằm trong nhóm nước có số ngày nghỉ phép năm khởi điểm ít nhất thế giới, với 12 ngày nghỉ phép mỗi năm.

Về giờ làm việc trung bình năm, Việt Nam là nước thuộc nhóm có số giờ làm việc thực tế cao nhất thế giới. Trong 11 nước tham gia Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam là nước có số giờ làm việc thực tế cao nhất. Trong khu vực ASEAN, nước ta có số giờ làm việc thực tế cao thứ hai sau Cam-pu-chia. Thế nhưng, về ngày nghỉ lễ, hiện nay, số ngày nghỉ lễ, Tết của Việt Nam ở mức trung bình thấp so với các quốc gia trên thế giới và khu vực. Bên cạnh đó, về giờ làm thêm, Việt Nam hiện ở mức trung bình của thế giới. Tuy nhiên, điều đáng nói là hiện tượng vi phạm giờ làm thêm ở Việt Nam khá phổ biến. Kết quả thanh tra lao động ngành may mặc 2015 cho thấy: 39,5% số doanh nghiệp không thực hiện đúng về số giờ làm thêm của NLÐ. Nhiều NLÐ phải chịu áp lực để tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian làm việc hoàn thành định mức lao động nhưng không được tính lương làm thêm ngoài giờ.

Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi ở từng giai đoạn, quốc gia khác nhau sẽ có quy định khác nhau, tuy nhiên, có điểm chung là xã hội càng phát triển, các quy định càng tiến bộ hơn so với trước. Giảm giờ làm thêm, tăng giờ nghỉ ngơi là xu hướng tiến bộ của loài người. Do vậy, cùng với xu thế tiến bộ của thế giới, việc xem xét giảm thời giờ làm việc bình thường của người lao động từ 48 giờ trong một tuần xuống 44 giờ trong một tuần vào thời điểm Bộ luật Lao động đang được tiến hành sửa đổi hiện nay là cần thiết và có cơ sở.

Các chuyên gia lao động công đoàn cho rằng, cơ sở chính trị - pháp lý của đề xuất giảm thời giờ làm việc cho NLÐ dựa trên quy định trong các công ước: Trong nỗ lực giảm giờ làm cho mọi loại hình công việc, đã thông qua Công ước số 47 thông qua tại Ðại hội đồng Tổ chức Lao động quốc tế (1935) về tuần làm việc 40 giờ. Mục tiêu này để giới hạn thời giờ cũng được phản ánh trong khuyến nghị về Giảm thời giờ làm việc số 116. Về cơ sở thực tiễn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, việc giảm giờ làm nhằm bảo đảm tăng năng suất lao động, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, duy trì sức khỏe, khả năng tái tạo sức lao động, có thời gian chăm sóc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội của NLÐ.

Nhiều cuộc khảo sát, điều tra đời sống công nhân lao động của Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên đoàn) và của các tổ chức khác cho thấy, thời giờ làm việc dài có thể tạo ra những hậu quả nghiêm trọng đối với cả NLÐ và doanh nghiệp. Ðó là việc xáo trộn nhịp sinh học, cuộc sống gia đình và xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm trạng, sức khỏe và hiệu suất trong công việc.

Khi sức khỏe của NLÐ giảm sút, nhất là lao động nữ, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bà mẹ khi mang thai, đồng nghĩa với việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của một thế hệ lao động tương lai sau vài chục năm. Tăng ca nhiều, NLÐ đánh mất cơ hội tìm bạn đời, không có thời gian quan tâm, xây dựng tổ ấm, thiếu thời gian chăm sóc, dạy dỗ con cái. Việc kéo dài giờ làm thêm, tăng ca là một trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột, tranh chấp lao động, ngừng việc và đình công. Qua các cuộc đình công cho thấy, nhóm yêu sách về thực hiện các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi chiếm tỷ lệ cao thứ hai sau tiền lương trong yêu sách của các cuộc ngừng việc, đình công, nhất là yêu sách giảm tăng ca của công nhân.

Theo tính toán của các chuyên gia trong bối cảnh nền công nghiệp 4.0 hiện nay, sức lao động và thời giờ làm việc của NLÐ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong việc tạo năng suất lao động và hiệu quả lao động. Năng suất lao động của một quốc gia không chỉ phản ánh mức độ chuyên cần của NLÐ mà phụ thuộc vào mức độ hiệu quả sử dụng lao động kết hợp với các yếu tố: máy móc; công nghệ; nguồn nhân lực có trình độ; cải cách hành chính cắt giảm chi phí bất hợp lý; nghỉ ngơi tái tạo sức lao động, sáng tạo... Do vậy, các chuyên gia lao động công đoàn cho rằng, không nên dồn hết gánh nặng tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động lên đôi vai NLÐ mà cần đánh giá đúng hơn trách nhiệm của người sử dụng lao động.

Việc giảm thời giờ làm việc bình thường sẽ tạo động lực, cơ hội để DN ứng dụng công nghệ, thích nghi với bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đổi mới quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động. Giảm giờ làm được thiết kế khoa học, hợp lý sẽ bảo đảm hài hòa với các yếu tố sức khỏe, xã hội, góp phần tăng thu nhập, việc làm cho NLÐ có thể tăng số lượng lao động tham gia vào thị trường lao động, tạo điều kiện để họ có thêm thời gian tái tạo sức lao động, học tập nâng cao trình độ, kỹ năng, hướng tới việc làm bền vững.

PHÚC QUÂN

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/chinhtri/cung-suy-ngam/item/41664802-can-nghien-cuu-thau-dao-viec-giam-gio-lam-viec.html