Cần sớm cụ thể hóa cơ chế ưu tiên

Mục tiêu chung của Bộ Công Thương đặt ra trong Chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là đến năm 2020, sản phẩm CNHT của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng nội địa và xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp.

Dệt may là một trong những ngành được ưu tiên phát triển

Ít doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng

Theo thống kê của Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có 1.800 doanh nghiệp (DN) sản xuất phụ tùng, linh kiện; trong đó, chỉ có khoảng 300 DN tham gia mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Số DN đang hoạt động trong CNHT hiện chiếm gần 4,5% tổng số DN của ngành công nghiệp chế biến - chế tạo, tạo việc làm cho hơn 550.000 lao động.

Thực trạng chung của ngành CNHT Việt Nam hiện nay là quy mô và năng lực của DN còn nhiều hạn chế: Số lượng ít, năng lực sản xuất còn rất thấp, thiếu nguồn lực và công nghệ để nâng cao năng suất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Các sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm.

Chuyên gia Phạm Mạnh Thắng - Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn giải pháp quản lý năng suất, chất lượng - cho rằng, phần lớn DN CNHT trong nước đang lạc hậu so với thực hành sản xuất tốt trên thế giới, thể hiện lãng phí trong các nhà máy cao. "Cũng sản xuất ra một sản phẩm như nhau, một DN CNHT trong nước sử dụng số giờ cao hơn 1,2 - 1,5 lần so với DN FDI. Áp dụng thực hành sản xuất chưa được tối ưu hóa, chất lượng kém ổn định hơn"- chuyên gia Phạm Mạnh Thắng lý giải.

Ưu tiên lĩnh vực đầu tư phát triển

Trước mục tiêu đến năm 2020, có khoảng 1.000 DN đủ năng lực cung ứng cho DN lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam, Bộ Công Thương đã nhìn ra những ngành, lĩnh vực chủ chốt để ưu tiên đầu tư phát triển.

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, được sự đồng ý của Chính phủ, một số ngành công nghiệp chủ lực đã được Bộ Công Thương xác định rất rõ, đó là điện tử, ôtô, dệt may, da giày, năng lượng... Đây đều là những ngành Việt Nam có tiềm năng, lợi thế và có những dung lượng thị trường. "Bộ Công Thương đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ, với hy vọng sắp tới, Việt Nam có điều kiện hình thành những trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ CNHT, trước mắt tại 3 trung tâm kinh tế lớn khu vực miền Bắc, Trung, Nam" - Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.

Theo đó, những trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ CNHT không chỉ tập trung giới thiệu công nghệ, hỗ trợ điều kiện tiếp cận công nghệ cho DN thông qua hợp tác quốc tế và các chính sách của Chính phủ nói chung, mà còn hỗ trợ cho nghiên cứu phát triển R&D (nghiên cứu và phát triển). Những trung tâm này sẽ đóng góp vào sự phát triển về giá trị gia tăng cho ngành CNHT.

Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ cho ngành CNHT, giúp DN trong nước có thể tận dụng được chính sách hỗ trợ, trong hàng loạt chính sách của nhà nước, từ hội nhập đến phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng của Việt Nam, cần phải ưu tiên thực hiện vai trò "bà đỡ" để DN có thể tiến xa hơn. "Những vấn đề lớn sẽ tập trung vào cơ chế, chính sách của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cộng đồng DN, nhất là DN nhỏ và vừa, hạn chế về quy mô trong lĩnh vực năng lực công nghệ, nguồn nhân lực cũng như điều kiện tín dụng và tiếp cận thị trường. Rất cần những khung khổ chính sách và cơ chế cụ thể của Chính phủ để hỗ trợ DN tiếp cận được với thị trường CNHT" - Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu giải pháp.

Theo Bộ Công Thương, đến năm 2030, sản phẩm CNHT đáp ứng được 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp; khoảng 2.000 DN đủ năng lực cung ứng cho các DN lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.

Lan Anh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/can-som-cu-the-hoa-co-che-uu-tien-120290.html