'Cánh đồng mẫu lớn' đang gặp nhiều khó khăn

Mô hình 'Cánh đồng mẫu lớn' từng được xem là một trong những phương án sản xuất tối ưu đối với ngành hàng lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, những hạn chế trong tổ chức cũng như vận hành khiến mô hình này đang gặp nhiều khó khăn.

Doanh nghiệp chịu nhiều áp lực

Lần ngược lại quá khứ, mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” (sau này gọi là “Cánh đồng lớn”-CĐL) được thí điểm đầu tiên trong vụ hè thu năm 2011 ở ĐBSCL và tỉnh Tây Ninh với diện tích liên kết hơn 7.800ha với 6.400 hộ nông dân tham gia. Những năm sau đó, diện tích sản xuất áp dụng mô hình này ngày càng tăng mạnh, đến năm 2014, tổng diện tích sản xuất của mô hình CĐL ở ĐBSCL đạt 146.000ha, năm 2015 lên gần 200.000ha… Tuy nhiên, thời gian gần đây, mô hình CĐL đã không còn phát triển.

Theo một số doanh nghiệp (DN), mô hình CĐL là mô hình tối ưu nhất cho mối liên kết giữa DN và nông dân nhưng hiện nay khó nhân rộng do thiếu vốn. Ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TP Cần Thơ) cho biết, công ty ông có khả năng liên kết sản xuất lúa khoảng 23.000ha nhưng hiện vẫn thiếu vốn để làm được điều đó. “Vì sao mô hình cánh đồng liên kết cần thiết và hiệu quả như vậy nhưng lại không mở rộng diện tích được?”, ông Bình nêu vấn đề và khẳng định lý do nằm ở DN xuất khẩu gạo không có vốn để thực hiện mô hình.

 Thu hoạch lúa trong “Cánh đồng lớn” ở huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ.

Thu hoạch lúa trong “Cánh đồng lớn” ở huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ.

Theo ông Bình, khi đã không liên kết thì việc DN “tranh mua, tranh bán” để xoay vòng vốn là lẽ đương nhiên xảy ra. Do đó, Nhà nước cần tập trung đầu tư và tạo mọi điều kiện cho DN tiếp cận vốn để mô hình này tiếp tục lan tỏa và phát huy hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, đối với các DN xuất khẩu gạo nòng cốt thì cần được ngân hàng cho vay đủ vốn để đầu tư xây dựng CĐL liên kết theo từng dự án được các tỉnh, thành phố phê duyệt dựa trên các tiêu chí, quy định của Chính phủvà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Là một trong những đơn vị đi đầu và thành công nhất trong thực hiện mô hình CĐL, nhưng hiện nay diện tích tham gia CĐL của Tập đoàn Lộc Trời (tỉnh An Giang) chỉ còn khoảng 30.000ha (năm 2015 là 90.000ha). Theo ông Dương Văn Chín, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Tập đoàn Lộc Trời), mô hình này đặt ra nhiều kỳ vọng lớn nhưng lại không có kế hoạch rõ ràng: Nội dung thực hiện là gì, ai làm, tiền ở đâu, làm trong bao nhiêu năm... đều không được quy định cụ thể nên thất bại là đương nhiên.

TS Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL nhận định: “Mỗi DN đều có hình thức liên kết với nông dân khác nhau nhưng bắt buộc phải bao tiêu sản phẩm cho nông dân. DN phải chịu áp lực lớn trong thu mua lúa của nông dân khi vào vụ thu hoạch nhưng lại thiếu vốn để đầu tư hạ tầng về kho bãi, phương tiện vận chuyển, nhà máy sấy nên quản lý không nổi, khiến mô hình teo tóp dần”.

Mất lòng tin, thiếu đầu ra

Ở ĐBSCL vẫn còn tình trạng giữa DN và người nông dân chưa có tiếng nói chung, các bên mất lòng tin lẫn nhau khiến mô hình này không phát triển mạnh được.Khi giá lúa xuống thấp thì DN cố tình kéo dài thời gian thu mua để ép giá nông dân, ngược lại khi giá lúa tăng cao thì nông dân lại “bẻ kèo” bán ra bên ngoài. Chính tư duy “thương vụ và mùa vụ” của những người trong cuộc khiến mối liên kết giữa DN và nông dân không bền vững, dẫn đến khả năng phát huy mô hình CĐL kém.

Ông Trần Văn Khởi, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, cho biết: Thực tế những năm qua đã chứng minh xây dựng vùng nguyên liệu lúa theo mô hình cánh đồng liên kết chuỗi giá trị là phương thức sản xuất phù hợp, là giải pháp tối ưu nhất và là xu thế của ngành hàng lúa gạo nước ta. Theo tính toán, mỗi héc-ta lúa tham gia trong CĐL có thể giảm chi phí sản xuất 10-15%, sản lượng tăng từ 20% đến 25%, thu lãi thêm khoảng 2,2-7,5 triệu đồng. Tham gia CĐL, người sản xuất được ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ổn định, được hỗ trợ kỹ thuật, hạn chế rủi ro. Còn DN thì chủ động được nguyên liệu, tạo điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh.

Tuy nhiên, theo ông Khởi, việc xây dựng các mô hình liên kết sản xuất-tiêu thụ lúa tại các tỉnh ĐBSCL vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ổn định, thậm chí có chiều hướng giảm sút trong thời gian gần đây. Theo thống kê, năm 2018, diện tích CĐL tại ĐBSCL chỉ đạt khoảng 380.000ha, chiếm 9,2% diện tích gieo trồng lúa cả vùng. “Như vậy, tỷ lệ lúa được tiêu thụ qua hợp đồng liên kết còn thấp, hầu hết nông dân vẫn phải bán lúa qua thương lái”, ông Khởi nói.

GS, TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, giải thích: “Lý do quan trọng nhất dẫn đến sự thất bại của mô hình CĐL là những người tổ chức (tức DN) không có đầu ra. DN không chỉ không tiếp cận được vốn, mà cho dù có vốn nhưng không tìm được đầu ra thì cuối cùng cũng thất bại. Mô hình CĐL muốn thành công phải xuất phát từ thị trường, nghĩa là DN phải biết khách hàng cần loại gạo gì, tiêu chuẩn ra sao. Khi đã có đầu ra thì DN mới hợp đồng sản xuất cùng nông dân với diện tích và tiêu chuẩn phù hợp”.

Bài và ảnh: HỒNG ĐĂNG - NGUYỄN NGHĨA

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/canh-dong-mau-lon-dang-gap-nhieu-kho-khan-583070