Chấm dứt hợp đồng khi sắp nghỉ hưu có được trợ cấp thôi việc?

Ông Nguyễn Đức Hiền (Quảng Ninh) sinh ngày 6/4/1961, nhập ngũ ngày 11/2/1982, xuất ngũ ngày 25/6/1985, trở về nơi trước khi nhập ngũ là Trường Trung cấp Kỹ thuật Cơ điện - Bộ Công nghiệp nhẹ chờ phân công công tác.

Khi ông Hiền xuất ngũ, trong quyết định có ghi các khoản: Trợ cấp xuất ngũ, tiền tàu xe, tiền ăn đường.

Tháng 1/1986, ông được Công ty Đóng tàu Hạ Long tiếp nhận vào làm việc cho đến nay. Tới ngày 6/7/2021, ông đủ tuổi nghỉ hưu (đủ 60 năm 03 tháng tuổi) theo Bộ luật Lao động 2019. Hiện nay, ông có mẹ già ở quê bị tai biến, không có người chăm sóc, ông viết đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời hạn đúng luật (đã hết 45 ngày).

Ông Hiền hỏi, ông có được doanh nghiệp chi trả trợ cấp thôi việc cho những năm phục vụ trong quân đội không?

Tiền lương của ông theo HĐLĐ dùng đóng BHXH là hệ số 2,2 x 3.920.000 đồng = 9.525.600 đồng. Lương hằng tháng Công ty thực trả là từ 11 đến 12 triệu đồng. Vậy lương tính trợ cấp thôi việc là lương nào (9.525.600 hay bình quân 6 tháng của lương 11-12 triệu đồng)?

Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời vấn đề ông Hiền hỏi như sau:

Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 (có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2020), hướng dẫn tại Khoản 1, Khoản 3, Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP đã được sửa đổi bởi Khoản 5, 6, 7 Điều 1 Nghị định số 148/2018/NĐ-CP và Khoản 1 Điều 8 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH thì, khi HĐLĐ chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này (trong đó có trường hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ và trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này) thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc (nếu có). Trong đó:

Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động theo HĐLĐ; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về BHXH; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thời gian nghỉ hằng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật Lao động; thời gian nghỉ việc để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo Điều 129 của Bộ luật Lao động.

Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Thời gian người sử dụng lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, thời gian được tính là thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, thời gian người sử dụng lao động đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động, bảo hiểm thất nghiệp;

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng); trường hợp có tháng lẻ thì từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng được tính bằng 1/2 năm; từ đủ 6 tháng trở lên được tính bằng 1 năm làm việc.

Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc, gồm:

- Mức lương tính theo thời gian của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng theo quy định của pháp luật lao động mà hai bên đã thỏa thuận ghi trong HĐLĐ.

- Các khoản phụ cấp lương mà hai bên đã thỏa thuận (nếu có), cụ thể: Các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong HĐLĐ chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ.

- Các khoản bổ sung được xác định mức tiền cụ thể (nếu có) cùng với mức lương thỏa thuận trong HĐLĐ và trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương.

Kinh phí chi trả trợ cấp thôi việc hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Theo ông Nguyễn Đức Hiền phản ánh, ông sinh ngày 6/4/1961, đến ngày 6/7/2021 sẽ đủ tuổi nghỉ hưu (đủ 60 năm 3 tháng tuổi) theo quy định tại Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019. Căn cứ Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 và Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Lao động 2019, nếu ông Hiền nghỉ hưu khi đủ điều kiện hưởng lương hưu thì sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc.

Ông Hiền cho biết, ông có mẹ già ở quê bị tai biến, đột quỵ không có người chăm sóc, nên đã viết đơn gửi Công ty báo việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ không xác định thời hạn trước 45 ngày theo quy định tại Khoản 3 Điều 37 Bộ luật Lao động 2012, và sẽ nghỉ việc từ đầu tháng 11/2020 này, chờ 9 tháng sau hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu.

Căn cứ trả trợ cấp thôi việc

Trả lời vấn đề ông Hiền hỏi về trợ cấp thôi việc, căn cứ các quy định nêu trên thì:

- Thời gian ông Hiền thực hiện nghĩa vụ quân sự trong quân đội từ ngày 11/2/1982 đến ngày 25/6/1985, khi xuất ngũ quân đội đã chi trả trợ cấp xuất ngũ (ghi trong quyết định xuất ngũ mà ông đã nêu). Mặt khác, ông Hiền cũng không thuộc trường hợp quân nhân chuyển ngành về Công ty Đóng tàu Hạ Long trước ngày 1/1/1995, nên Công ty không có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho ông thời gian tham gia quân đội.

- Ông Hiền bắt đầu làm việc tại Công ty Đóng tàu Hạ Long từ tháng 1/1986. Tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 1/1/2009 đến nay (từ khi Nghị định số 127/2008/NĐ-CP có hiệu lực). Thời gian ông Hiền được tính trợ cấp thôi việc từ tháng 1/1986 cho đến hết ngày 31/12/2008.

- Tiền lương tính trả trợ cấp thôi việc là mức lương tính theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng cộng các khoản phụ cấp (nếu có) mà hai bên đã thỏa thuận ghi trong HĐLĐ (hiện nay Công ty đang dùng làm căn cứ đóng BHXH đối với ông Hiền).

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 (có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2020) và Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Lao động 2019 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2021), người lao động khi đủ điều kiện về tuổi nghỉ hưu và thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu thì không được hưởng trợ cấp thôi việc.

Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 37 Bộ luật Lao động 2012, người lao động chỉ cần báo trước 45 ngày là có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ.

Luật sư Trần Văn Toàn

VPLS Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.

Nguồn Chính Phủ: http://baochinhphu.vn/tra-loi-cong-dan/cham-dut-hop-dong-khi-sap-nghi-huu-co-duoc-tro-cap-thoi-viec/412557.vgp