Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa mãi mãi sáng ngời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc

Chiến thắng lịch sử của Ngọc Hồi – Đống Đa cũng như tên tuổi của người anh hùng áo vải Quang Trung mãi mãi sáng ngời trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta. Khi tổ quốc bị xâm lăng, chỉ có cùng toàn dân đánh giặc cứu nước mới là con đường đúng đắn nhất. Vua Quang Trung đã theo con đường ấy, và trở thành anh hùng của dân tộc Việt Nam.

Sáng ngày hôm nay (9/2), tức mùng 5 tháng Giêng, trong không khí tưng bừng phấn khởi mừng Đảng, mừng xuân, mừng đất nước đổi mới, thành ủy – HĐNH – UBND – UBMTTQVN tp Hà Nội long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa và đón nhận di tích Quốc gia đặc biệt.

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta đã trải qua vô vàn gian khổ, hy sinh mất mát, nhưng cả dân tộc nhất tề đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm.Và những chiến công lừng danh đã được sử sách ghi nhận, và sống mãi trong tâm trí, trong ký ức của người con đất Việt. Là người Việt Nam, có thể khẳng định rằng không ai là không biết đến chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa vĩ đại.

Trên mảnh đất linh thiêng Gò Đống Đa ngày nay cách đây tròn đúng 230 năm, vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 quân nhà Tây Sơn dũng mãnh, dưới sự chỉ huy tài tình của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã tiến công thần tốc đánh tan hơn 29 vạn quân nhà Thanh xâm lược giành lại độc lập tự do cho đất nước.

Một chiến thắng oanh liệt trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, và từ đó cứ đến ngày mùng 5 tháng Giêng hằng năm đã trở thành ngày truyền thống của nhân dân thủ đô nói riêng và nhân dân cả nước nói chung cùng nhau về Gò Đống Đa ôn lại truyền thống chống giặc ngoại xâm, đồng thời ôn lại và tôn vinh chiến công hiển hách của người anh hùng dân tộc áo vải cờ đào Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ.

Hoàn cảnh lịch sửchiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789

Ngày 21 tháng 7 năm Mậu Ngọ 1786, Nguyễn Huệ (1753 – 1792) kéo đại quân vào Thăng Long, chính quyền của họ Trịnh bị lật đổ. Nguyễn Huệ trao lại quyền hành cho vua Lê Hiển Tông (1716 -1786), và được vua Lê Hiển Tông phong cho tước Uy Quốc Công. Vua Lê Hiển Tông cũng nhường cho Tây Sơn đất Nghệ An, gọi là để thưởng công. Sau khi hoàn thành mọi việc, Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân.

Ngay sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam, tình hình Bắc hà rối loạn, nhân dân cực khổ. Vua Lê Hiển Tông mất, kế vị là vua Lê Chiêu Thống (1766 – 1793) bất lực trong việc chống chọi với thế lực họ Trịnh do Trịnh Bồng đứng đầu đang cố sức gây dựng lại cơ đồ cũ của họ Trịnh.

Những ảnh trên: Quang cảnh lễ kỷ niệm 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.

Vua Lê Chiêu Thống dựa vào sự giúp đỡ của Nguyễn Hữu Chỉnh đánh bại họ Trịnh, đốt phá phủ chúa. Nguyễn Hữu Chỉnh sau đó lộng quyền, chống lại nhà Tây Sơn, cho người vào đòi lại Nghệ An. Cuối năm Đinh Mùi 1787, Nguyễn Huệ lúc đó làm chủ vùng đất từ Phú Xuân (Huế) ra Bắc theo sự phân chia của Nguyễn Nhạc (1743 – 1793), cử Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm đem quân ra Bắc hà tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.

Trước sức tấn công dữ dội của quân Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh và vua Lê Chiêu Thống phải bỏ chạy lên phía bắc, dọc đường quân sỹ bỏ trốn gần hết. Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đến vùng Yên Thế (Bắc Giang) thì bị bắt và bị giết chết. Vua Lê Chiêu Thống trốn thoát, rồi vượt biên chạy sang Quảng Tây (Trung Quốc).

Đến Quảng Tây, vua Lê Chiêu Thống vội đến cầu cứu tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh và viết thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sỹ Nghị (1720 – 1796). Tôn Sỹ Nghị liền dâng sớ lên cho vua Càn Long (1711 – 1799) nội dung là giúp vua Lê “phục tồn” để nhân đó “đặt thú binh giữ lấy An Nam” làm một việc mà được hai công.

Vua Càn Long suy nghĩ, kiểm tra cẩn thận đã đồng ý, hạ lệnh điều động binh mã của 4 tỉnh là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu, tất cả gồm hơn 29 vạn quân (bao gồm cả dân phu), do Tôn Sỹ Nghị làm Tổng chỉ huy, chia quân làm 4 đạo tiến sang xâm lược nước ta.

Đạo quân thứ nhất đi theo đường Lạng Sơn do Tôn Sỹ Nghị trực tiếp chỉ huy; Đạo quân thứ hai đi theo đường Cao Bằng do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy; Đạo quân thứ ba đi theo đường Tuyên Quang do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy; Đạo quân thứ tư theo hướng Quảng Ninh tiến vào đóng ở Hải Dương.

Đến tháng 11 năm Mậu Thân 1788, quân nhà Thanh ồ ạt tiến vào nước ta.Tướng của nhà Tây Sơn trấn giữ ở Lạng Sơn là Phan Khải Đức sợ hãi đầu hàng giặc.Tin cấp báo về Thăng Long, Ngô Văn Sở lập tức hội các tướng để bàn bạc tìm cách đối phó.

Hàng vạn người dân và du khách tham dự Lễ hội kỷ niệm 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa

Ngô Thời Nhậm đã đề nghị là tạm rút lui vào đóng giữ phòng tuyến Tam Điệp (Ba Dội - Ninh Bình) – Biện Sơn (Thanh Hóa), để cho quân Thanh tạm thời vào Thăng Long, rồi cho người cấp báo với Nguyễn Huệ đem quân ra tiêu diệt quân nhà Thanh. Ngô Văn Sở đã tán thành đề nghị đó, một mặt hạ lệnh cho quân sỹ bí mật rút về Tam Điệp –Biện Sơn, một mặt cử người về Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ.

Quân chủ lực của Tôn Sỹ Nghị, được sự dẫn đường và nội ứng của tàn quân Lê Chiêu Thống đã nhanh chóng tiến vào chiếm đóng Thăng Long vào ngày 17 tháng 12 năm 1788. Để phòng thủ Thăng Long, Tôn Sỹ Nghị cho đạo quân của Sầm Nghi Đống đóng ở Khương Thượng (Đống Đa – Hà Nội), đạo quân của Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây, lập nhiều đồn lũy liên tiếp ở Thanh Quyết, Nhật Tảo, Văn Điển, Ngọc Hồi. Bản thân Tôn Sỹ Nghị thì đóng tại bản doanh ở cung Tây Long (bờ sông Hồng thuộc Hà Nội).

Chiếm được Thăng Long và các tỉnh ở phía bắc, Tôn Sỹ Nghị tỏ ra kiêu ngạo, thả cho quân sỹ mặc sức làm càn, cướp bóc của những nhà giàu có, hãm hiếp đàn bà con gái không còn kiêng sợ gì nữa.

Trong khi đó thì vua Lê Chiêu Thống một mặt trả thù, báo oán rất ti tiện, một mặt hằng ngày đến chầu chực ở đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị rất nhục nhã và bị bọn chúng khinh bỉ. Hành động của vua Lê Chiêu Thống khiến cho nhân dân ở Thăng Long than thở: “Nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế”.

Hoàng đế Quang Trung đại phá quân Thanh xâm lược

Ngay sau khi nhận được tin cấp báo, ngày 22 tháng 12 năm 1788 (tức ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ sai người lập đàn ở phía nam núi Ngự Bình (Huế), tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, và lập tức tiến quân ra Bắc.

Đến Nghệ An, đóng quân lại một thời gian để chiêu mộ thêm quân. Chỉ trong vòng mấy ngày, thanh niên trai tráng địa phương nô nức kéo về, hang hái tòng quân, vì vậy mà quân số lên đến hơn 10 vạn. Trên đường ra Thanh Hóa vua Quang Trung lại tiếp tục tuyển thêm lính mới.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân, đại quân Tây Sơn đã tập kết tại phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn. Sau khi nghe Ngô Văn Sở báo cáo tình hình, vua Quang Trung tỏ ý tán thành chủ trương của Ngô Thời Nhậm, và cùng các tướng chuẩn bị cuộc tổng tiến công.

Toàn quân được chia làm 5 đạo: Đạo thứ nhất đánh thẳng vào các đồn lũy phía nam Thăng Long và là đạo quân chủ lực do vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy; Đạo thứ hai do đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy đánh vào đồn Khương Thượng, rồi qua cửa Tây Nam đánh thẳng vào Thăng long; Đạo thứ ba do đại đô đốc Bảo chỉ huy, tiến vào Đại Áng (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) chuẩn bị tham gia tiêu diệt đồn Ngọc Hồi; Đạo thứ tư do đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển lên đống ở Hải Dương uy hiếp mặt đông của quân giặc; Đạo thứ năm do đại đô đốc Lộc chỉ huy, vượt biển vào sông Lục Đầu sẵn sang tiêu diệt tàn quân của giặc.

Kế hoạch chiến đấu đã sẵn sàng, nhiệm vụ của các đạo quân đã được xác định, vua Quang Trung nghĩ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vào ngày cuối tháng Chạp năm Mậu Thân 1788, quyết định mở tiệc khao quân, gọi là ăn tết trước, chờ đến ngày mùng 7 tháng Giêng vào Thăng Long sẽ làm lễ hạ nêu, mừng chiến thắng.

Trong khi đó, một số quan tướng nhà Lê sốt ruột, xin Tôn Sỹ Nghị xuất quân, nhưng Tôn Sỹ Nghị kiêu ngạo trả lời: “Giặc còn gầy, ta hãy nuôi cho béo, để chúng tự đến dâng thịt cho ta”. Và từ ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân 1788, Tôn Sỹ Nghị thả cho quân sỹ chơi bời, quậy phá đón xuân.

Theo đúng như kế hoạch, vua Quang Trung cho quân lính gấp rút lên đường ra Bắc. Các đồn tiền tiêu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật Tảo lần lượt bị hạ, không một tên lính nào chạy thoát. Nửa đêm ngày mùng 3 tết, vua Quang Trung cho quân bao vây đồn Hà Hồi, đúng vào lúc quân nhà Thanh đang say sưa trong giấc ngủ.Theo đúng kế hoạch, vua Quang Trung cho bắc loa gọi hàng. Hốt hoảng, bất ngờ khi nghe tiếng loa, lũ giặc ở đồn Hà Hồi mở cửa đầu hàng, đồn Hà Hồi đã bị tiêu diệt một cách nhanh chóng.

Vua Quang Trung cho đóng quân lại, chuẩn bị trận quyết chiến sắp tới ở đồn Ngọc Hồi. Đồn Ngọc Hồi do phó tướng của giặc là Hứa Thế Hanh chỉ huy theo sự phân công của Tôn Sỹ Nghị thì đồn Ngọc Hồi giữ vị trí then chốt ở mặt nam.

Sáng ngày mùng 4 tết, đang vui vẻ ăn uống thì Tôn Sỹ Nghị nhận được tin cấp báo “quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp, bắt sống hết rồi”. Vì đồn Ngọc Hồi có vị trí quan trọng, cho nên Tôn Sỹ nghị lập tức chi viện cho đồn Ngọc Hồi.

Rạng sáng ngày 5 tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung cho đội tượng binh bất ngờ tiến nhanh về phía đồn Ngọc Hồi. Hứa Thế Hanh lập tức ra lệnh cho đội kỵ binh xông ra nghênh chiến, vừa thấy voi chiến của Tây Sơn, đoàn ngựa của giặc hoảng sợ bỏ chạy. Trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, quân địch chống đỡ không nổi, quay đầu bỏ chạy tháo thân như ong vỡ tổ, tướng giặc là Hứa Thế Thanh chết trong đám loạn quân.

Hàng vạn quân nhà Thanh tháo chạy về phía Thăng Long (từ đồn Ngọc Hồi đến trung tâm Tăng Long 14 km), bị quân ta nghi binh, nên chúng dồn về làng Quỳnh Đô, định từ đây chạy qua cầu về Văn Điển rồi chạy ra Thăng Long.Theo như kế hoạch, đạo quân của đô đốc Bảo đã mai phục sẵn tiêu diệt địch ở mạn bắc Quỳnh Đô, vì vậy mà quân giặc bị giết hại vô số.

Cũng theo như kế hoạch, lúc vua Quang Trung cho quân đánh vào Ngọc Hồi, thì cũng là lúc đạo quân của đô đốc Đông tấn công như vũ bão vào Khương Thượng – Đống Đa. Bị đánh bất ngờ, quân giặc hoảng loạn chống đỡ yếu ớt, tướng giặc là Sầm Nghi Đống tuyệt vọng thắt cổ chết tại sở chỉ huy, quân giặc vỡ trận thua tan tác, đô đốc Đông thừa thắng tiến quân thẳng về trung tâm Thăng Long.

Tôn Sỹ Nghị kịp tỉnh giấc, thấy lửa cháy ở phía Đống Đa, y hốt hoảng không biết phải xử trí như thế nào, đành nhảy vội lên ngựa cùng một số tùy tùng chạy qua cầu phao , vượt sông hồng lên mạn bắc. Quân sỹ thấy chủ tướng đã chạy, bèn hùa nhau chạy theo, số bị quân Tây Sơn đuổi giết, số bị rơi xuống sông chết nhiều vô kể.

Đến trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung ngồi trên lưng voi, áo bào xạm đen khói súng, đi đầu đại quân tiến vào Thăng Long giữa cảnh vui mừng khôn xiết của nhân dân. Như vậy là trong vòng chưa đầy 5 ngày đêm, vừa hành quân thần tốc, vừa chiếu đấu quyết liệt dũng cảm, cơ động và đầy sáng tạo, dưới chỉ chỉ huy tài tình của vua Quang Trung, quân và dân ta đã đập tan cuộc xâm chiếm của quân nhà Thanh, đập tan bè lũ vua Lê Chiêu Thống.

Chiến thắng lịch sử của Ngọc Hồi – Đống Đa cũng như tên tuổi của người anh hùng áo vải Quang Trung mãi mãi sáng ngời trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta. Khi tổ quốc bị xâm lăng, chỉ có cùng toàn dân đánh giặc cứu nước mới là con đường đúng đắn nhất. Vua Quang Trung đã theo con đường ấy, và trở thành anh hùng của dân tộc Việt Nam.

Vương Quốc Hoa

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/vang-mai-ban-hung-ca-ngoc-hoi--dong-da-67084