Chiếu hoa bên sông Luộc

Làng Hới, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình nằm dọc con sông Luộc, đối diện với bờ bên kia là đất Hưng Yên. Một thời làng đổi gọi thành Hải Hồ. Sau này mới có tên Triều Hải. Nhưng dân ở đây vẫn quen tên kẻ Hới, bởi cả làng dệt chiếu. Từ cổ xưa làng đã gắn với tục ngữ dân gian: 'Ăn cơm Hom. Nằm giường Hòm. Đắp chiếu Hới'. Nghĩa là chiếu làng Hới êm và mát.

Đền thờ ông “Trạng chiếu”

Nghề dệt chiếu hiện phát triển khắp cả nước, nhưng chỉ có kẻ Hới mới thờ ông “Trạng chiếu”, ông tổ nghề dệt chiếu của cả nước ta. Đó là quan Thượng Thư thời Lê, Tam nguyên Phạm Đôn Lễ (1457-1531), quê ở làng Hới.

Ông là người đỗ đầu cả ba kỳ thi, khoa Tân Mùi (1481). Chuyện kể, trong khi đi sứ sang nhà Minh, ông đã học được kỹ thuật dệt chiếu của vùng Quế Lâm, Quảng Tây, Trung Quốc. Thấy dân làng mình dệt chiếu theo truyền thống quá vất vả, nên ông đã cho mua bàn dệt chiếu nằm, có ngựa đỡ sợi mang về. Ông còn tự mầy mò nghiên cứu, vận hành thành thạo, rồi phổ biến cho mọi người.

Sợi đay được căng trên ngựa đỡ, thuận lợi cho việc trao cói, đẩy nhanh tốc độ dệt. Chiếu làng Hới đẹp và dầy, được mang đi bán khắp nơi. Kỹ thuật dệt chiếu mới được phổ cập từ đó, cách đây hơn 500 năm. Sau khi ông mất đi, dân làng xin triều đình lập đền thờ và tôn vinh ông là “Trạng chiếu”.

Cho dù đến nay, kỹ thuật dệt chiếu tự động bằng máy được phổ cập rộng rãi, nhưng hầu như các khâu hoàn chỉnh vẫn phải làm thủ công. Từ công việc kết biên, in hoa và hấp, hoặc phơi nắng đều phải do bàn tay người thợ làm việc cần mẫn ngày đêm. Đặc biệt khâu vắt mép chiếu (đường biên) vẫn phải do con người gia công.

Máy dệt chiếu ở làng Hới.

Các cụ ngày xưa đã dạy “Chọn chiếu xem biên, người hiền xem mặt” là vì thế. Riêng chiếu Đậu của làng Hới phải dùng tới 8 năm mới có thể lỏng biên. Hơn thế nữa chiếu làng Hới có nhiều loại dệt theo yêu cầu của khách như: Chiếu trắng, chiếu Đậu, chiếu Hoa, chiếu Lễ, chiếu Cỗ, chiếu Cưới. Nay chợ Hới (bên sông Luộc) vẫn là nơi thu hút khách hàng khắp nơi về tìm mua chiếu.

Đặc biệt, vào ngày lễ đầu năm (mùng Sáu tháng Giêng), ngày sinh của quan “Trạng chiếu”, làng Hới còn tổ chức hội thi dệt chiếu bằng tay. Hội thi luôn nhắc nhở cho con em trong làng cần giữ lấy nghề và làm giàu cho quê hương bằng những lá chiếu được dệt từ 500 năm qua. Nay cả xã Tân Lễ đều làm chiếu cói như làng Hới.

Theo nghệ nhân Mai Sơn, người đầu tiên nhập máy dệt trong làng cho biết, hiện cả xã có tới 90% số hộ làm chiếu. Ông còn nói, cho dù trong làng đã có hộ làm chiếu nilon, hoặc chợ còn bày bán các loại chiếu bằng chất liệu chiếu khác, nhưng chiếu Đậu làng Hới vẫn được người mua lựa chọn nhiều nhất.

Người nghệ nhân này còn vui vẻ tâm sự, ngoài chiếu đẹp, những cô gái dệt chiếu và bán chiếu ở làng cũng đẹp nức tiếng thiên hạ, đến nay mọi người vẫn truyền tụng: “Rượu Me-chè Thái-gái Hải Triều”. Nói rồi, ông chỉ đường cho tôi tới đền thờ “Nàng bán chiếu gon” thuở nào đẹp nức thành Thăng Long, với số phận bi kịch trong vụ án “Lệ Chi Viên”.

Oan khuất ngàn thu

Tôi thật không ngờ mình lại về đúng quê làng Hới (Hải Hồ), nơi người nữ sĩ Nguyễn Thị Lộ được sinh ra (năm 1400). Theo như truyền thuyết của các cụ kể lại, trước đó nữ sĩ có tên cúng cơm là Nguyễn Thị Gấm, xinh đẹp nhất làng. Khi lớn lên Gấm được cha, một cử nhân kiêm thày thuốc dạy học khá sớm. Nên ở độ tuổi trăng rằm mà cô Gấm xinh đẹp đã thông thạo Tứ Thư, Ngũ kinh, Nho, Y, Lý, Số.

Nhưng rồi ông đột ngột qua đời. Gấm đã cùng mẹ lo dệt chiếu kiếm ăn, nuôi dạy các em nhỏ. Chiếu làng Hới có tiếng vang xa lên tận thành Thăng Long. Mọi người chở thuyền theo sông Luộc, sông Hồng ngược lên Hà thành bán chiếu. Cũng từ đó cô Gấm đã theo người làng lên thành đô. Do bản tính thông minh, cô Gấm sớm nắm bắt thông thạo đường đi lối lại, và lại còn nắm vững thời tiết theo mùa, nên thường được bà con tin cậy hỏi han. Họ bèn gọi tên cô là Lộ và để cô dẫn đường.

Hơn nữa việc đổi tên còn lý do, vào thời kỳ này giặc Minh đang đô hộ nước ta, lắm nhiễu nhương tai họa ập đến. Trong gia tộc lúc đó có không ít người bị tàn sát. Cô Gấm vì hay đi lại từ Hải Hồ lên Thăng Long, còn giúp một người cậu ở vùng Hồ Tây bán chiếu, nên cần phải đổi tên. Cái tên Nguyễn Thị Lộ ra đời từ đó.

Vậy nên khi gặp Nguyễn Trãi ở kinh thành, những câu thơ đối đáp giữa hai người, Nguyễn Thị Lộ mới chừng tuổi 16. Sau có một số dị bản đối đáp hơi khác nhau về danh xưng, tên địa phương và tuổi tác. Nhưng khi về đây các cụ đã ghi lại chính xác rằng “Nàng ở đâu đi bán chiếu gon/ Phải chăng chiếu bán hết hay còn./ Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi/ Đã có chồng chưa, được mấy con?”. Đó là lời “ghẹo” của Nguyễn Trãi, còn Nguyễn Thị Lộ đáp: “Thiếp ở Hải Hồ (có bản ghi Tây Hồ) bán chiếu gon/ Hỏi chi chiếu bán hết hay còn/ Xuân xanh chừng độ trăng tròn lẻ/ Chồng con chưa có, hỏi chi con”.

Thấy cô gái bán chiếu có tài, có sắc đẹp rạng rỡ ở tuổi trăng tròn, Nguyễn Trãi xin cưới về làm vợ lẽ. Một cuộc sống hạnh phúc với người đẹp làng Hới từ đó, cho dù lúc này Nguyễn Trãi đang bị giặc Minh giam lỏng ở thành Đông Quan (Thăng Long). Ông dạy học tại làng Khuyến Lương (Thanh Trì) bên sông Hồng cách thành Đông Quan không bao xa.

Những nghệ nhân đang in mẫu chiếu hoa.

Với tài trí thông minh, Nguyễn Thị Lộ đã cùng chồng sống ẩn dật, nuôi ý chí chống giặc Minh đô hộ nước ta. Một thời gian sau, hai người trốn vào Thanh Hóa, giúp Lê Lợi khởi nghĩa, xưng vương (năm 1418). Trải qua mười năm nếm mật nằm gai, cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của Lê Lợi đã thắng lợi và đánh đuổi được quân Minh ra khỏi nước ta (1428). Vào thời điểm này, Nguyễn Trãi đã thảo chiếu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu và nhậm chức Nhập nội hành khiển (Lại bộ thượng thư kiêm Quản côn khu mật viện).

Cũng trong thời gian này, bà Nguyễn Thị Lộ vẫn sát cánh cùng chồng hoạt động và là chỗ dựa tinh thần trong mọi công việc. Ngay cả khi Nguyễn Trãi không được Lê Lợi tin dùng, vì lời xúi giục của các tham quan, bà càng trở nên quan trọng trong đời sống dân giã, ẩn dật tại Côn Sơn của chồng. Hai người vượt qua bao gian truân. Họ cùng đàm đạo văn thơ, dạy học và sống một cuộc đời viên mãn, tránh xa những bả vinh hoa. Nhưng chỉ mấy năm sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Thông nghe lời cha dặn phải dùng lại Nguyễn Trãi, vì ông bị nghi oan.

Lúc này, Nguyễn Thị Lộ lại tiếp tục cùng chồng gánh vác việc giang sơn. Bà được vua yêu quý và trọng dụng vì tài sắc và đức độ. Nguyễn Thị Lộ được phong làm Lễ nghi Học sĩ. Chính sự trở lại triều đình lần thứ hai này của vợ chồng Nguyễn Trãi là khởi nguồn dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên, xảy ra vào năm 1442. Khi ấy vua Lê Thái Tông đột ngột chết trong đêm. Bên cạnh có Nguyễn Thị Lộ. Đó là thảm án gây chấn động đất nước khi vợ chồng Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc.

Những nỗi niềm còn đó

Phải mãi tới 22 năm sau, vụ án Lệ Chi Viên mới được vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan (1464), khẳng định Nguyễn Trãi vô tội. Nhưng với Nguyễn Thị Lộ thì không. Một khoảng trống “Nghìn thu khó rửa xong trường hận” (thơ Trần Lê Văn). Nhân dân làng Hới (Hải Triều) đã lập đền thờ Lễ nghi học sỹ Nguyễn Thị Lộ tại nơi bà đã sinh ra. Họ đã minh oan cho Lễ nghi học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Thần dân đã tôn bà lên Đức Thánh mẫu vì tài đức, công ơn của bà đã cùng chồng lập nghiệp, chống giặc ngoại xâm.

Khi tới đây, tôi mới biết xã Tân Lễ đã thành lập “Câu lạc bộ Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ”, với mục đích khuyến học, khuyến tài. Năm 2009, dân làng cho đúc tượng đồng chân dung bà để thờ tự. Cũng từ đây, nhiều câu lạc bộ đã ra đời ở một số tỉnh và thành phố. Chung quanh đền thờ Đức Thánh Mẫu Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ, rất nhiều câu đối, thơ ca được ghi dấu lại, để tưởng nhớ bà.

Những câu thơ của dân làng viết: “Ngày đi mấy lá chiếu gon/ Đường về một gánh nước non bời bời/ Người đi để lại bồi hồi/ Cùng Sao Khuê sáng trọn đời núi sông”. Tôi bần thần đứng bên hồ sen trước bức tượng Đức bà. Hương hoa ngát thơm và hồn người còn quanh quất đâu đây…

Vương Tâm

Nguồn VNCA: http://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/chieu-hoa-ben-song-luoc-497891/