Chính phủ thống nhất lùi thời gian trình dự án Luật Đặc khu

Thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, thời gian thông qua luật đặc khu sẽ được lùi sang Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV.

Theo thông tin từ Văn phòng Chính phủ, Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội xem xét, cho lùi việc thông qua Dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt từ Kỳ họp thứ 5 sang Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV để có thêm thời gian nghiên cứu, hoàn thiện.

Dự án Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc đã được xây dựng công phu, kỹ lưỡng, nhằm thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng 3 đặc khu kinh tế, tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá, có sức lan tỏa lớn. Dự án Luật đã được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV.

Tại kỳ họp này, sau khi tiếp thu các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học, nhà kinh tế, chuyên gia, cử tri và nhân dân cả nước, Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội xem xét, cho lùi việc thông qua Dự án Luật này từ Kỳ họp thứ 5 sang Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV để có thêm thời gian nghiên cứu, hoàn thiện nhằm bảo đảm dự án Luật khi trình Quốc hội thông qua đáp ứng được các yêu cầu, nguyện vọng của các vị đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân, xây dựng thành công 3 đặc khu, giữ vững an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Riêng về vấn đề thời hạn cho thuê đất, sẽ xem xét, trình Quốc hội cho áp dụng như các quy định của Luật đất đai, không quy định trường hợp đặc biệt kéo dài đến 99 năm.

Trao đổi với phóng viên bên hành lang Quốc hội ngày 4/6, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, trong những ngày gần đây ông nhận được nhiều thư, tin nhắn, cuộc gọi của các chuyên gia, lão thành, nhân dân và cũng nắm được thông tin từ dư luận liên quan đến quy định của dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.

Về quy định thời hạn tối đa có thể giao đất 99 năm, Thủ tướng nói: "Dự án luật đã quy định là trong những trường hợp đặc biệt thì Thủ tướng quyết định việc này. Đương nhiên, trong những trường hợp đặc biệt đó, trước khi quyết định thì Thủ tướng phải xem xét, báo cáo các cơ quan có thẩm quyền".

Thủ tướng khẳng định Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ lắng nghe ý kiến dư luận để báo cáo Quốc hội quyết định vấn đề này. Quốc hội cân nhắc thận trọng, có thể không chấp nhận quy định đó, Chính phủ sẽ thực hiện theo quyết định của Quốc hội".

Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc đưa ra kỳ họp thứ 5 Quốc hội đã nhận được nhiều ý kiến băn khoăn, tranh luận về nhiều vấn đề, nhất là thời hạn cho nhà đầu tư thuê đất lên đến 99 năm.

Những tiềm năng, lợi thế của ba đặc khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tỏa sức hấp dẫn, tiếp cận các xu hướng môi trường kinh doanh và quản lý tiên tiến nhất của khu vực và quốc tế, thu hút các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, nhân tài, ý tưởng phát triển và mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu kinh tế, cải thiện nguồn thu ngân sách Nhà nước (NSNN).

Hấp dẫn và lan tỏa

Là một trong 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển (3.260km), hơn 50 cảng biển, 40 vũng, vịnh và hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam đang có 16 khu kinh tế (KKT) ven biển, với 815.000ha tổng diện tích mặt đất và mặt nước, mỗi năm đạt tổng doanh thu khoảng 6 - 8 tỷ USD, đóng góp cho NSNN khoảng 500 - 600 triệu USD và hướng tới mục tiêu đến năm 2020, các KKT ven biển đóng góp từ 53 - 55% GDP quốc gia và 55 - 60% tổng kim ngạch xuất khẩu... Dù đã và đang áp dụng các chính sách ưu đãi, nhưng các KKT này vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập, tăng tốc chuyển đổi mô hình và quản lý phát triển vĩ mô, nhất là kinh tế biển.

Đặc khu kinh tế (ĐKKT) là sản phẩm và cơ chế thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với tiền thân là các mô hình cảng tự do, khu thương mại tự do, khu công nghiệp và chế xuất, khu kinh tế tự do… Chúng xuất hiện đầu tiên ở Italy năm 1547 và ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào đầu thế kỷ 18, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do Singapore (1819) và khu mậu dịch tự do Hồng Kông (1842). Đến nay trên thế giới đã có hơn 3.500 đặc khu và khu kinh tế tự do tại 135 quốc gia. Trung Quốc được coi là nước có nhiều thành công trong xây dựng ĐKKT. Trên thực tế, các đặc khu đang đóng góp khoảng 22% GDP, 45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 60% kim ngạch xuất khẩu hằng năm của Trung Quốc...

Xây dựng ĐKKT được Đảng và Nhà nước quan tâm từ hơn 20 năm trước, trải qua nhiều lần “nâng lên đặt xuống”, hiện chủ trương này đang đi vào giai đoạn hiện thực hóa theo Kết luận số 74-KL/TW, ngày 17/10/2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa XI) về thí điểm thành lập các khu hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu kinh tế) tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang). Cả 3 đặc khu này đều có thế mạnh và sức hấp dẫn riêng.

Vân Đồn với cửa khẩu Móng Cái, tạo thêm kênh mới trực tiếp giao thương với Trung Quốc cả về thương mại và du lịch nghỉ dưỡng cao cấp; Bắc Vân Phong có thế mạnh là cảng biển và cung cấp các dịch vụ hậu cần biển, du lịch quốc tế cao cấp phục vụ cả đối tượng dân sự và quân sự; Phú Quốc nằm gần Singapore, Malaysia và ở trung tâm của khu vực địa lý ASEAN, nên có nhiều triển vọng nhất trong định hướng trở thành một “mô hình Singapore mới” ở Việt Nam. Đồng thời, cả 3 đặc khu này sẽ tạo kết nối tổng thể không gian kinh tế mới trên biển Việt Nam và khu vực, với những điểm nhấn về tạo chuỗi cung ứng công nghiệp - dịch vụ kinh tế biển hiện đại đầy triển vọng trong tương lai.

Ba đặc khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam tỏa sức hấp dẫn còn bởi những kỳ vọng lớn lao, tạo nơi thí điểm để mở rộng các thể chế mang tính đột phá so với mức độ hiện hành trong nước, tiếp cận các xu hướng môi trường kinh doanh và quản lý tiên tiến nhất của khu vực và quốc tế, tạo hấp lực thu hút các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, nhân tài, ý tưởng phát triển và mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu kinh tế, cải thiện nguồn thu NSNN, tạo việc làm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; bảo vệ môi trường và góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển.

Chuẩn bị kỹ lưỡng với sự cẩn trọng cao

Thực tiễn thế giới đã và đang cho thấy, mức độ thành công của một ĐKKT tùy thuộc vào địa điểm được lựa chọn xây dựng, ngoài yêu cầu về bảo đảm an ninh, quốc phòng, cần bảo đảm phát huy lợi thế riêng, thuận lợi cho quá trình giao thương, hợp tác kinh tế, du lịch và dịch vụ quốc tế, nằm gần những đô thị chính, các trung tâm kinh tế, dịch vụ và văn hóa, có nguồn nhân lực chất lượng cao dồi dào, có hệ thống giao thông phát triển và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như điện, nước sạch, thoát nước, thông tin liên lạc,... tạo lợi thế địa kinh tế cho sự hội tụ, liên kết và lan tỏa cao nhất hiệu ứng tích cực cho khu vực và toàn quốc.

Đồng thời, đặc khu cần có những thể chế kinh tế và hành chính hiện đại, mang tính mở, tự do, minh bạch, linh hoạt và tự chủ cao, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư, đặc biệt là thu hút các nhà đầu tư chiến lược từ bên ngoài; phát triển cơ cấu ngành nghề đa dạng, cả về chế tạo và dịch vụ, trong đó ưu tiên các ngành dịch vụ trung gian và dịch vụ hậu cần hỗ trợ kinh doanh; tiếp cận thị trường đa dạng, cả bên trong lẫn bên ngoài đặc khu, ưu tiên hướng về xuất khẩu.

Các đặc khu hiện đại thường mang dáng dấp của một thành phố tự do và có tính quốc tế hóa rất cao cả về kinh doanh và quản lý nhà nước, đáp ứng hầu hết các yêu cầu triển khai các hoạt động toàn cầu của những công ty xuyên quốc gia. Tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu thường phải ít cấp trung gian hơn, trực tuyến hơn và được phân quyền mạnh hơn và quản lý ưu đãi thông thoáng hơn về thuế và hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng, đất đai, giao thông và các điều kiện hỗ trợ kinh doanh và giao dịch quốc tế liên quan…

Thực tế cũng cho thấy, thành công và những kỳ vọng với đặc khu không tự đến dễ dàng. Theo Ngân hàng Thế giới, 50% trong số các đặc khu và khu kinh tế tự do trên toàn cầu đã thất bại, với không ít vấn đề đã và đang đặt ra cho việc cụ thể hóa các hình hài của từng đặc khu, đặc biệt là về cơ sở pháp lý cho mô hình tổ chức, quản lý sự phân cấp và thẩm quyền của người đứng đầu đặc khu; cơ chế giám sát quyền lực và phòng ngừa nạn tham nhũng và lộng quyền, trục lợi chính sách; định hướng phát triển ngành nghề phù hợp và cơ chế chính sách vượt trội cần thiết mang tính cạnh tranh cao.

Hơn nữa, bên cạnh những khoản chi phí lớn và áp lực tăng nợ hoặc vỡ nợ bởi đầu tư hạ tầng, bùng nổ thái quá và chệch hướng các cơ sở kinh doanh dịch vụ và nguy cơ thất thu thuế, các đặc khu cũng có thể tạo ra sự méo mó trong đời sống kinh tế - xã hội địa phương và quốc gia, trong khi không tạo ra sự bùng nổ thương mại hay cơ hội việc làm tương xứng với chi phí và theo mục tiêu ảo vọng. Việc xa rời thực tế và sự hào hứng dễ dãi một chiều trong việc thành lập, mơ hồ trong cơ chế kiểm soát các đặc khu có thể biến nơi đây thành biểu tượng của sự thiếu hiệu quả trong đầu tư xã hội, sự cạnh tranh không lành mạnh và bãi thải của công nghiệp lạc hậu, ô nhiễm môi trường.

Đặc biệt, việc cấp chính quyền sử dụng đất đai lâu dài quá mức thông thường để hấp dẫn nhà đầu tư chiến lược đầu tư lâu dài tại đặc khu, mà không cân nhắc kỹ càng các tiêu chí loại trừ, vô hiệu hóa quyền sử dụng đất đai đã giao, thiếu các cơ chế phòng ngừa chặt chẽ về pháp lý và chế tài mạnh; trong khi bị tình trạng lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ chi phối, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không thấy lợi ích chiến lược quốc gia về an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, thì rất dễ gây hệ lụy đắt đỏ bởi mưu kế “con ngựa thành Tơ-roa” của người xưa...!

Ngày 06/01/2018, Đoàn công tác của Hội đồng thẩm định Đề án thành lập Đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc do Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm trưởng đoàn đã tiến hành khảo sát, nắm tình hình tại Vân Đồn, gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và ghi nhận sự ủng hộ của người dân huyện Vân Đồn về chủ trương thành lập Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn. Qua đó, hy vọng góp phần hoàn chỉnh thêm Luật Đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc biệt sẽ được Quốc hội thông qua.

Được chuẩn bị kỹ lưỡng với sự cẩn trọng cần có, ĐKKT được kỳ vọng trở thành động lực mới hấp dẫn, có thể mang lại sức tăng trưởng mới cho khu vực và cả nước, cho hôm nay và cho cả mai sau…

Đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc thêm các góp ý về luật đặc khu

Một số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã đề nghị lùi thời gian, không thông qua dự thảo Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc tại kỳ họp thứ 5 lần này.

Phát biểu trong phiên thảo luận ở hội trường ngày 7/6 về dự kiến Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2019, đại biểu Thái Trường Giang (Cà Mau) đã lên tiếng đề nghị hoãn thông qua dự án luật về ba đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Ông Thái Trường Giang nhấn mạnh: "Vì những thực tiễn phát sinh trong thời gian gần đây, đề nghị Quốc hội xem xét lại, ví vụ trong dự kiến năm 2019 chúng ta giám sát đất đai giai đoạn 2014-2018, nếu được thì chúng ta lồng ghép làm một chương trình giám sát ở 3 khu mà chúng ta chuẩn bị thông qua đặc khu. Vấn đề đất đai ở đó sử dụng chuyển đổi mục đích, giao dịch như thế nào để có cơ sở đánh giá kỹ vấn đề mà dư luận đang quan tâm".

Đại biểu Lê Thanh Vân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội, cũng cho rằng, dự luật này chưa thể thông qua mà cần dời lại để bàn kỹ, cần thiết thì phải xin ý kiến nhân dân. Dự luật về đặc khu có mục tiêu đúng, với mong muốn thiết kế được một "phòng thí nghiệm về thể chế", tạo ra sự đột phá cho sự phát triển. Tuy nhiên, nội dung của dự thảo luật còn một số vấn đề cần phải tiếp tục đánh giá kỹ càng, tạo nhận thức chung, phù hợp với mô hình và đặc điểm của Việt Nam.

Vân Nhi (tổng hợp)

Nguồn KTNT: https://kinhtenongthon.vn/chinh-phu-thong-nhat-lui-thoi-gian-trinh-du-an-luat-dac-khu-post19865.html