Chúa Trịnh Sâm và bút tích ở Tràng An

Trịnh Sâm là con trưởng của Nghị tổ ân vương Trịnh Doanh, quê ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, năm ất Sửu (1745) được lập làm thế tử, lên ngôi Chúa năm Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (1767) sau khi Chúa Trịnh Doanh băng hà. Khi lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm tự tấn phong là Nguyên soái Tổng quốc chính, Tĩnh Đô vương. Từ nhỏ Trịnh Sâm đã được học hành có hệ thống, ở cương vị ngôi Chúa được coi là một người văn võ song toàn, quyết đoán, ham xem kinh sử và thơ văn. Vì vậy từ kỷ cương triều nội đến chính sự quốc gia, Trịnh Sâm đều cho sửa đổi lại cho phù hợp với triều đại đương nhiệm.

Non nước Tràng An. Ảnh: Ninh Mạnh Thắng

Ở ngôi chúa 15 năm(1767 - 1782) Trịnh Sâm hầu như tuần du khắp đàng Ngoài và nhiều vùng đất đàngTrong, vi hành và thưởng ngoạn những danh lam thắng cảnh của đất nước. Những cảmnhận trong từng chuyến đi đã được nhà Chúa ghi chép, viết thơ và một số bài đãkhắc trên vách đá. Tác phẩm của Trịnh Sâm gồm có: Thanh Tâm tồn duy thi tập, Tâytuần ký trình thi, Nam tuần ký trình thi, Bình hưng thực lục...

Đối với vùng đấtHoa Lư, chúa Trịnh Sâm đã chạm khắc và đề vịnh một số bài thơ. Trong đó, bài“Qua Tràng An” đã được khắc trên vách núi hang Luồn.

Mùa đông năm CanhDần (1770) sau khi đi tuần thú bờ cõi miền Tây, lúc quay thuyền trở về, đi tắttới đất Tràng An. Khi nhà Chúa ngự thuyền trên sông Sào Khê (một nhánh của sôngHoàng Long) vòng vèo với các hang động kỳ thú, nhất là khi luồn qua một trái núilớn, hang rộng sông sâu, mà người dân địa phương gọi là hang Luồn hay Xuyên ThủyĐộng.

Trước phong cảnh núi sông hùng vĩ của kinh đô nhà Đinh, nhà tiền Lê và thơìkỳ đầu nhà Lý, Trịnh Sâm bèn đặt tên hang là động “Xuyên Sơn” và cảm khái làm bàithơ “Quá Tràng An” (Qua Tràng An) để tả nỗi lòng và cho khắc trên vách núi độnghang Luồn (Xuyên Thủy động), thuộc ngoại vi cố đô Hoa Lư (nay là vùng lõi quầnthể Di sản Văn hóa - Thiên nhiên thế giới Tràng An). Đề cập đến việc này, sáchLịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã chép: “Động Hoa Lư ở trên sôngĐiềm (sông Sào Khê), thuộc huyện Yên Khang, có từng đợt núi cao chót vót, giưãcó động đá, cứ theo sông đi qua động; bên động có một ngọn núi, giống như hìnhngười, gọi là núi Trạng Nguyên; có một quả núi, đá xếp từng từng, gọi là Hòm Sách...Tĩnh vương Trịnh lên chơi có đề thơ” (Lịchtriều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú, Nxb. Giáo dục, T. 1, quyển 2, năm2007, Tr. 65). Tấm bia khắc Bài ký động Liên Hoa của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị cũngkhắc: “...

Phía ngoài có khe từ sông tiểu Hoàng Long (sông Sào Khê) ngoằn ngoèochảy tới xuyên qua chân núi. Chúa Trịnh đặt tên là động “Xuyên Sơn” và có thơkhắc vào đá” (Bia đá khắc Bài ký động Liên Hoa của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, hiệnđang dựng phía bên phải lối lên đền thờ hai vị tướng nhà Đinh. Trích từ bản dịchchép trong sách Danh nhân đất Ninh Bình - Phạm Đình Nhân chủ biên, Trung tâmUNESCO - Thông tin tư liệu Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, năm 2000, Tr. 363).

Đồngthời, sách Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, đã tả phong cảnh hang Luồn: “Đánúi nằm ngang cao chót vót, phía dưới có hang, có dòng nước chảy chui qua, cóthể cho thuyền bè đi thông được. Cảnh trí khá đẹp, tục gọi là hang Luồn. Nhà địalý bảo đó là động Thạch Lương. Năm Cảnh Hưng triều Lê có thơ khắc vào vách đá”(Nguyễn Tử Mẫn, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2001, Tr. 108).

Hiện bia khắc bàithơ trên vách núi hang Luồn còn khá nguyên vẹn, bia chạm trên một triền núi bằngphẳng in bóng xuống sông Sào Khê. Vách đá cheo leo dựng đứng, bia cao so với mặtnước sông khoảng 4m, có kích thước chiều cao 155cm, chiều dài 241cm. Chữ Hán trênmặt bia tất cả khắc 13 dòng, được chia làm 3 phần: Lời tựa phía bên phải bia có5 dòng, nói về hoàn cảnh ra đời của bài thơ; bên trái là lạc khoản có 2 dòng, dòngthứ nhất ghi biệt hiệu của chúa Trịnh Sâm là “Nhật Nam Nguyên chủ đề”, dòng thứhai với cỡ chữ nhỏ chỉ bằng 1/3 so với cỡ chữ trong bài thơ “Thần Cao Đoàn phụngtả”; chính giữa là nội dung bài thơ.

Bài thơ Đường, thể “thất ngôn bát cú” nhưngkhắc trên bia có sáu dòng. Theo đó, dòng 1, 3, 4, 5 mỗi dòng có 10 chữ; dòng thứhai có 11 chữ (do chữ “nhất” trong câu “Thừa đề” tiết kiệm được chiều cao củacon chữ) và dòng thứ sáu có 5 chữ “Lẫm lẫm giới duy gian”.

Căn cứ nguyên biama nhai đang hiện hữu trên vách núi hang Luồn, nay thuộc quần thể Di sản Văn hoávà Thiên nhiên thế giới Tràng An, sau khi chép chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, bàithơ được dịch như sau:

Qua Tràng An

Đi tuần quay lại đấtTràng An,

Thuyền ngự Hoa Lư

cũng thuận làn.

Như lụa trắng vòng

xuyên Thủy Động,

Tựa non vàng caongất Sơn Quan.

Cố Đô thuở ấy baothay đổi,

Thiên Phủ còn đâyvẫn vẹn toàn.

Hưng phế người xưabao

chuyện cũ,

Dân nơi đất hiểm,hiểu tâm can.

Trần Lâm Bình dịch

(Thơ Ninh Bình ngànnăm trên vách đá - Nxb. Hội Nhà văn, năm 2010, Tr. 149).

Ngoài bài thơ khắc ở vách núi hang Luồn trên đây,những cảnh đẹp trên vùng đất cố đô Hoa Lư, hầu như đều có dấu vết xa giá của nhàChúa ngự tới. Trong đó, những danh thắng còn để lại bút tích là hang Luồn, BíchĐộng và núi Hồi Hạc. Cuối năm Giáp Ngọ (1774), sau khi “Tự thống suất đại binh”từ Châu ái trở về, chúa Trịnh Sâm đã ghéthăm chùa động Bích Động và để lại bút tích là bức Đại tự với 2 chữ Hán “Bích Động”rất lớn (kích cỡ mỗi chữ cao 71cm, rộng 55cm) phía trên vòm cửa động chùaTrung, với dòng lạc khoản “Nhật Nam nguyên chủ đặc bút/ Nguyễn Nghiễm phụng đề”(Bút tích của người đứng đầu nước Nam (Trịnh Sâm)/ Nguyễn Nghiễm vâng mệnh viếtchữ).

Đồng thời, nhà Chúa còn cho khắc bài thơ “Hồi Hạc sơn” (Núi Hồi Hạc) và bứcĐại Tự “Thiên nhiên diệu xảo” trên vách núi Hồi Hạc (Sách Lịch triều hiến chươngloại chí, Phan Huy Chú chép: “Núi Hồi Hạc ở bãi biển Yên Khang, gần núi Dục Thúy.Tĩnh Vương lên chơi xem, có viết bốn chữ “Thiên nhiên diệu xảo” khắc vào đá vàcó vịnh thơ” - Lịch triều hiến chương loại chí (Sđd, Tr. 69).

Ngoài những bút tíchmà chúa Trịnh Sâm khắc trên vách núi Ninh Bình, nhà chúa còn để lại bút tích ở độngHương Tích, động Tiên Sơn, chùa Tuyết Sơn, núi Hinh Bồng (thuộc khu danh thắngchùa Hương, Hà Nội); động Từ Thức, động Bạch á, động Lục Vân, núi Vân Lỗi, núiChích Trợ, động Hồ Công, động Diệu Sơn (tỉnh Thanh Hóa).

Hiện tại, tấm bia“Qua Tràng An” đã bị đục xóa hai chữ “Tây tuần” trong nội dung bài thơ và nămchữ “Nhật Nam nguyên chủ đề” ở phần lạc khoản (Theo “12 điều ít biết về bảo vậtthế giới” của Gia Vũ: “Toàn bộ những dòng mỹ hiệu, mỹ từ viết về chúa Trịnh trêncác bia đá có hiện tượng bị đục xóa chữ. Đó là sản phẩm từ thời nhà Nguyễn. Năm1840, vua Minh Mệnh yêu cầu đục bỏ những đoạn ca ngợi công đức họ Trịnh trên mộtsố bia thời Lê trung hưng (Chuyên san Thư Họa ngày 5/ 8/2001). Vì vậy, cần cóbiện pháp thiết thực nhằm bảo vệ những di tích quý hiếm hàng mấy trăm năm tuổi ởvùng lõi Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới Tràng An.

Trần Lâm Bình

Nguồn Ninh Bình: http://baoninhbinh.org.vn/chua-trinh-sam-va-but-tich-o-trang-an-2019032208522246p0c1.htm