Chuyện chưa kể về Bí thư 'mo cơm quả cà' Nguyễn Hữu Đợi: Kỳ 3

Người ta nói ý tưởng làm hồ Vực Mấu có từ thời ông Hồ Đình Tư (1968) nhưng cứ trình lên trình xuống với tỉnh với Bộ mà vẫn vướng. Ông Đợi thì khác.

Ông đến gặp bà con hai xã Quỳnh Trang và Quỳnh Vinh, chỉ tay hỏi: Đố ai biết xưa kia làng này gọi là làng gì? Một cụ già nói: "Làng Ưa, Bí thư ạ". Ông chỉ tay bên trái hỏi tiếp, còn đây là làng gì? Nhiều người đáp: "Thưa làng Mít ạ".

Ông thủng thẳng nói: Các cụ xưa thâm sâu lắm, đây là lối nói lái đấy. Mít Ưa là mưa ít. Đúng không? Là hạn, là nghèo khổ do mưa ít làm sao mà sản xuất được. Thì ta phải đắp đập giữ nước lại để sản xuất. Huyện đã tranh thủ được nguồn lực máy móc của Trung ương, dân cả huyện sẽ kéo về đây cùng đắp đập thế thì người hưởng lợi nhiều nhất là hai xã này, vậy phải tạo điều kiện nơi ăn ở cho hàng nghìn người từ nơi khác đến. Được không?". Bà con đều vui vẻ đồng ý.

Xây dựng hồ Vực Mấu ông trực tiếp làm tổng chỉ huy công trường, ông đã thành lập "sư đoàn bê tông" và "sư đoàn bộ binh", hai trung đoàn xe ba gác và xe cút kít, tổng số người làm trên công trường lên tới hàng vạn người. Dân mỗi xã phiên thành một tiểu đoàn, y như quân đội.

Tổng bí thư Lê Duẩn thăm đại công trường Vực Mấu.

Tổng bí thư Lê Duẩn thăm đại công trường Vực Mấu.

Ông nói, chỉ bằng cách đó mới có kỷ luật, mới có sự chỉ huy thống nhất và có thi đua mang lại hiệu quả. Đây là công trường thủy nông lớn thứ hai miền Bắc (sau công trình Bắc Hưng Hải), nếu không "nhảy vô" làm thì Quỳnh Lưu đâu có cơ hội vàng ấy.

Ai cũng biết một công trình chứa 75 triệu mét khối nước, cung cấp nước tưới cho gần 4 nghìn ha lúa hai vụ, rồi còn cắt lũ cho vùng hạ lưu và là khu du lịch sinh thái sau này, một công trình thủy lợi to lớn như vậy nhưng được làm bằng 80 phần trăm là đôi vai và đôi tay người dân Quỳnh Lưu, về đầu tư thì sức dân cũng chiếm đến 80 phần trăm.

Ông Nguyễn Hữu Đợi (thứ hai từ trái sang, hàng trước) đưa đoàn TW đi kiểm tra tình hình xây dựng ở huyện Quỳnh Lưu

Ông bí thư hay xuống xã kiểm tra tình hình sản xuất, có khi ông xuống hẳn ruộng. Có lần ô tô đang đi trên đường, các bà cấy mạ gọi với lên: Ông Bí thư đi ô tô có biết cấy không? Ông liền xuống xe, xắn quần, cấy mấy hàng làm các bà tái mặt. Ai cấy không đều hoặc không thẳng hàng, ông phê cho kịch liệt, đến nỗi ông mang tiếng thét ra lửa. Nhưng nông dân vốn túc tắc, nhẩn nha, không hét ra lửa như ông thì không xong, không đúng lịch.

Cũng nhờ tác phong quân sự hét ra lửa của ông mà trong thời gian ngắn Quỳnh Lưu đã làm nên một diện mạo Quỳnh Lưu mới. Thì đấy: Bê tông hóa kênh mương của Nghệ An xuất phát từ Quỳnh Lưu thời ông. Dồn điền đổi thửa là thời ông. Quy hoạch dân cư, khai thác đất trống đồi núi trọc, cũng thời ông.

Ngay cả khái niệm sản xuất lớn từng bị nhiều người chê cười, nay bỗng thấy đúng, khi cả nước đang hình thành xu thế tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hóa cũng đã có từ thời ông Đợi.

Phát động làm thủy lợi hồ Vực Mấu.

Còn rất nhiều ví dụ để nói ông là người gương mẫu hành động, nhưng với riêng tôi lại có một kỷ niệm sâu sắc về ông. Năm 1993, hai xã Quỳnh Vinh và Quỳnh Thiện xích mích nhau dẫn đến “cái sảy nảy cái ung”, người chết, nhà bị cháy, tình hình vẫn rất căng thẳng, lãnh đạo huyện về xã nào là bà con họ giữ lại ngay, không ai gặp được cán bộ xã để tìm cách giải quyết.

Thật là khó khăn! May có sáng kiến mời bác Nguyễn Hữu Đợi - nguyên là Bí thư Huyện ủy - người đã lãnh đạo nhân dân Hoàng Mai dời dân hai xã này khai hoang, làm các công trình thủy lợi mà nhờ đó đời sống người dân hai xã đủ ăn đủ mặc, nhân dân ở vùng này rất ngưỡng mộ ông, nói là sẽ “lập đền thờ sống” ông.

Do vậy, chỉ có bác Đợi không bị bắt giữ và chỉ có ông nói dân mới nghe. Và phóng viên thì chọn tôi (vì dân đã biết mặt và có phần gan góc nữa). Tôi sẽ đèo ông đi bằng xe máy. Lãnh đạo huyện quyết định mời ông ra, ông nhận lời ngay. Tôi và ông đi xe máy vào nơi giao tranh cũng run vì đường sá vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng lại nghe tiếng ùng oàng, tiếng súng bắn, tiếng mìn nổ.

Đến trạm gác hai xã mấy dân quân nhìn thấy ông Đợi họ liền bỏ súng chạy tới choàng ôm lấy ông, khóc nức nở. Tôi đứng xa thấy ông đến ôm từng người và nói những gì tôi không nghe được nhưng thấy họ lau nước mắt và hăm hở dẫn ông vào gặp lãnh đạo địa phương. Sau đó lãnh đạo hai xã chủ động gặp nhau cùng giải quyết hậu quả. Thắng lợi thật bất ngờ.

Hiện nay ta đang thực hiện nghị quyết TW7 nhưng với Quỳnh Lưu đã làm từ rất lâu rồi như chủ trương nhập xã, năm 1976 Quỳnh Lưu đã tiến hành thí điểm ba mô hình theo hướng sản xuất lớn, nhập ba xã Quỳnh Hồng, Quỳnh Hậu, Quỳnh Thạch thành xã Hồng Sơn, nhập 2 xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng thành xã Quỳnh Phú và nhập 3 xã Quỳnh Vinh, Quỳnh Thiện, Quỳnh Dị thành xã Quỳnh Mai. Tình hình các xã mới chuyển biến rất rõ nét, sau đó Thường vụ Huyện ủy Quỳnh Lưu đã rút ra được 10 thành tựu của 3 xã mới. Và hơn nữa vấn đề nêu gương mà Hội nghị TW 8 đang triển khai, ông Đợi cũng đã làm từ lâu.

Một góc thị xã Hoàng Mai ngày nay

Công việc nhiều và ông lúc nào cũng hăng. Chính sự sôi nổi, quyết liệt ấy của ông đã truyền cảm hứng, niềm tin cho số đông cán bộ và nhân dân. Ông đã nói, đã làm là làm cho bằng được, kêu gọi mọi sự đồng lòng vì mục tiêu chung.

Vì thế, với ông “không có việc gì khó” cả. Phải nghĩ ra việc mà làm, "Một giỏ đất, một lít nước cũng làm lương thực được" và "Có nước là có lúa, có đất là có màu, có người là có việc" chẳng để ai ngồi không. Con người hành động của ông thể hiện ra ngoài đến là gay gắt: “Chỉ bàn tiến, không được bàn lùi”.

Sống và làm việc cùng ông, tôi biết ông không phải đưa thân ra hùng hục mà làm đâu. Vẫn biết hành động ở đây là tổ chức mọi người lại tìm ra cách làm năng suất nhất, hiệu quả nhất. Do vậy, dù hay quát nạt cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nhưng ông vẫn rất thương họ.

Ông trọng nhất là cán bộ kỹ thuật. Ông rất ghét những anh cán bộ “chỉ nói không làm”, hoặc làm không đến đầu đến đũa hay những anh “bàn lùi”. Nói như ngôn ngữ bây giờ thì ông rất dị ứng với loại cán bộ “Sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”.

Ông đã kỷ luật nhiều anh cán bộ dạng ấy. Thậm chí, có anh cũng thuộc dạng “thu hút nhân tài” của huyện, có trình độ cao ở tỉnh về giúp huyện nhưng không được việc là ông đuổi liền. Ông luôn nói: "Tôi cần người làm việc”.

Dù ông được tín nhiệm cao, trí tuệ ông được coi là sáng suốt quyết đoán, có quyền cao nhất của một huyện, nhưng thực tế thì ông vẫn nói thật thà: "Thiên kế vạn kế, nhất kế Đảng; Thiên binh vạn mã, nhất tự lương". Nghĩa là cho dù tài giỏi, lắm mưu kế, đầu óc sáng tạo mấy thì cũng không bằng trí tuệ của Đảng và bám vào chủ trương đường lối của Đảng mà thi hành. Đúng là ông đã tuyệt đối trung thành với chủ trương của Đảng.

Những năm ông làm Bí thư, nhận làm điểm ông phải thực hiện nhiều nhiệm vụ Trung ương giao rất nặng nề: xây dựng cụm kinh tế kỹ thuật; thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp; xây dựng hợp tác xã quy mô lớn theo mô hình ở Bungari; điều hành lao động trên địa bàn xây dựng kinh tế xã hội. Những nghiệm vụ này vô cùng khó khăn, có cái tuy ông chưa tâm đắc nhưng đã là nhiệm vụ cấp trên thì tính đảng vẫn là chấp hành nghiêm túc, tìm mọi cách hoàn thành.

Nghiệm thu kênh đào.

Trên cơ sở đó ông đã chia Quỳnh Lưu thành 7 cụm kinh tế kỹ thuât. 7 cụm này sau vì điều kiện khách quan không phát triển bền vững nhưng tại thời điểm đó đều có căn cứ đồng đất, tập quán và phát huy thế mạnh.

Một buổi chiều cuối hè bỗng có cơn mưa lạ. Trời đen kịt như có chuyện gì chẳng lành. Đó là buổi chiều ông Đợi vừa đi dự hội nghị hưu trí ở xã bạn về thì gặp cơn mưa và bị cảm lạnh. Con người như sắt như đồng như thế mà bị cảm lạnh.

Tưởng cũng chỉ sụt sịt rồi qua khỏi, bởi ông còn dặn vợ "Mai tôi có cuộc họp dưới xã, trưa không về ăn cơm ở nhà đâu bà". Thế rồi ông đi ngủ. Không ngờ đó là giấc ngủ dài mãi mãi. Ông đi thật thanh thản với “mo cơm quả cà và tấm lòng trung trinh”, ông lên thiên đường, tâm thế thật thanh thản.

Cái ngày chúng tôi đưa tiễn ông về thế giới bên kia, do nghề nghiệp cho phép nên tôi được gần ông và hoạt động một chút cho riêng ông, tôi lại được Huyện ủy cử đi quay phim đám tang của ông.

Tôi không ngờ một đám tang của một người cương vị cấp huyện mà đông thế, cảm động đến thế. Ô tô ít, xe máy cũng ít, nhưng người đi xe đạp nhiều vô cùng, xe đạp dựng la liệt từ đầu làng đến ngõ nhà ông. Nghe tiếng thì đủ biết người khắp cả huyện tề tựu về.

Có người đạp xe 20km từ vùng Hoàng Mai đến. Rồi nghe tiếng cả đồng bào định cư, thời ông lên chọn đất tận Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong cũng về. Hồi đó tôi không thấy phong bì nhưng đồ phúng viếng thật đa dạng. Nào là nải chuối buồng cau trong vườn, nào cân nếp bì gạo mà họ cho là thành quả do ông đưa lại. Đoàn người đưa tiễn kéo dài hàng cây số.

Tôi nghe trong đám tang tiếng người nói mếu máo và nhìn thấy dòng nước mắt lăn trên má thật sự. Tôi còn nghe những lời bàn tán rằng, nên lập đền thờ ông. Có người lại hiến kế, nên làm một tượng đài, để mọi người nhớ đã có một thời, một người đã lăn lộn cùng dân để lo cho dân.

Ghi chép

Khi ông Đợi đi gặp nhà văn Nguyễn Minh Châu

Để tranh luận về “Phiên Chợ Giát” (*)

Cánh đồng Quỳnh Trang, Quỳnh Tân xanh lên bát ngát

Cháu con lão Khúng (**) đã bán xe bò

Mua xe công nông lập xưởng ô tô

Hai ông không được chứng kiến

Hoàng Mai lên thị xã

Nhà máy xi măng hái ra tiền

Mai Giang lặng lẽ ngày đêm

Tích ngọt ngào cho vực mấu.

Lớp con, lớp cháu

Tìm “Phiên Chợ Giát” đọc nghiến ngấu

Giận thương thời ông Bời (**) biết bao

Bí thư và nhà văn đều có công lao

Nguyễn Minh Châu nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học

Nguyễn Hữu Đợi dân Hoàng Mai thường nhắc

Đòi lập miếu thờ.

(*) Tập truyện vừa Nguyễn Minh Châu

(**) Các nhân vật trong Phiên Chợ Giát

Trần Đình Khuê

Theo nongnghiep.vn

Nguồn Khỏe 365: http://khoe365.net.vn/chuyen-chua-ke-ve-bi-thu-mo-com-qua-ca-nguyen-huu-doi-ky-3--61087.htm