Cô thợ sửa ghế

Margaret Mahuntleth ngồi một góc trên chiếc ghế lớn, dưới ánh lửa lò sưởi bập bùng. Ánh lửa khiến chiếc khăn choàng len, chiếc tạp dề trắng và cả khuôn mặt mỏi mệt nhưng long lanh, dịu dàng của cô ửng hồng.

Khung cảnh như thể phần xương thịt ai đó vốn đã bị mưa gió, bão tuyết bào mòn trên những chặng đường dài nay được hun đỏ dưới ánh mặt trời, óng lên như lớp men sứ thượng hạng, cong cong lớp khảm xà cừ.

Sau những giông gió cuộc đời, có những khuôn mặt giăng giăng những nếp nhăn như lớp đá núi. Nhưng lại có những khuôn mặt như lớp đá cuội dưới lòng suối; nước càng chảy xiết bao nhiêu, giông gió càng nhiều bao nhiêu thì lại càng mịn màng bấy nhiêu. Margaret là một trong những người như vậy. Mặc dù thuộc tuýp người cũ, nhưng cô vẫn có một khuôn mặt hết sức trẻ trung. Một khuôn mặt thánh thiện mà ở đó người ta luôn thấy hiển hiện một niềm hạnh phúc không thể phủ nhận. Margaret chưa bao giờ nghĩ rằng có ngày mình tới trang trại Thresholds trong cái thời tiết như thế này, với cái dạ dày trống rỗng và lại được mời ngay vào nhà bếp. Thường thì mỗi lần tới đây, cô làm việc ở trong nhà kho và việc chính của cô là sửa ghế.

Minh họa: MẠNH TIẾN.

Trên đôi chân nhỏ nhắn, Margaret đi khắp nơi trong hạt, mang theo gói đồ chẳng đáng giá là bao của mình. Với những món đồ đó, cô chẳng nhớ nổi mình đã sửa chữa bao nhiêu chiếc ghế cho bao nhiêu trang trại, bao nhiêu ngôi nhà và thậm chí là bao nhiêu khu bếp của các vị linh mục, bao nhiêu căn phòng của giáo xứ và cả những khu phía sau nhà thờ nơi dành tiếp đón người của trại tế bần. Cô sửa chữa ghế phần lớn là để người ta có đúng thứ cần dùng, để mà quây quần quanh lò sưởi hay những bữa cơm thịnh soạn. Ví như những chiếc ghế cô sửa cho đám cưới thì chẳng ai có thể tìm ra được chút tì vết nào. Còn những chiếc ghế trong đám tang ư? Rất chắc chắn! Đó là bởi người tới viếng thường là lớn tuổi và cùng với thời gian, cân nặng của họ cũng tăng lên như thể cơ thể họ bị bao phủ bởi một lớp sinh vật ngoại lai nào đó hết sức nặng nề vậy.

Những chiếc ghế dành cho các buổi vũ hội thì lại khác. Chúng phải rất khỏe bởi các cô vũ công nặng cỡ 80 cân sẽ chẳng ngần ngại mà ngồi trên đùi những vũ công nam nặng ngót nghét một tạ.

Margaret hiểu tất cả những điều đó như lòng bàn tay. Cô cũng từng tới một buổi dạ vũ nhiều năm trước đây, nhưng ở đó người ta quên mất sự hiện diện của cô và chẳng có ai mời cô nhảy cả. Sự nhút nhát cùng với đôi mắt buồn buồn, luôn cúi xuống cùng trang phục giản dị kết hợp với tính cách của cô một cách hoàn hảo, giúp cô tan biến vào bất cứ hậu trường của một sự kiện nào. Cô cũng luôn ý thức rằng sẽ chẳng mấy ai để ý tới một người con gái làm nghề sửa ghế, chứ chẳng phải là con gái của người làm vườn ở tòa thị chính hay con gái nhà hiệu trưởng nào đó. Vì vậy, người khác quên khuấy mất sự có mặt của cô đã đành; ngay bản thân cô cũng quên mất rằng mình đã từng ở đó.

Cô làm việc chăm chỉ và có thể tạo ra những chiếc giỏ đựng bơ hay giỏ đựng gia cầm mà lũ chim khi đã bị nhốt vào trong thì chỉ có cách duy nhất là thò cái đầu ra ngoài mà nháo nhác. Cô cũng làm ghế bành cho trẻ con có trang trí họa tiết và cả những chiếc ghế dài cho các bà mẹ đang nuôi con. Mùa đông và mùa hè, cô thường đi bộ từ nơi này qua nơi khác, trên những con đường khi phủ tuyết, lúc bụi mù hay bất kể con đường nào, rụt rè gõ cửa từng trang trại mà rao vọng vào trong với cái giọng nhỏ nhẹ, buồn buồn nhưng thánh thót của mình: “Ai sửa ghế không!”. Câu rao nhanh chóng bị gió đem đi.

Sau đó, Margaret sẽ mang những chiếc ghế hỏng ra vườn hoặc vào nhà kho, ngồi xuống và bắt đầu công việc của mình, miệt mài suốt một ngày đông giá lạnh hay ngày hè trời cao xanh ngắt; hai bàn tay xương xương như đan, như múa. Cô chẳng bao giờ đi qua đi lại, hay đi sang chỗ nào khác trong trang trại cả. Nhà bếp ấm áp sẽ là cả một thiên đường với cô, một tiên nữ thánh thiện. Nhưng cô chẳng hề tham vọng. Cô tới dưới vòm trời này, trong thung lũng này chỉ để làm công việc sửa ghế và làm công việc của mình một cách điêu luyện như những người lùn trong thần thoại, rồi sau đó lại rời đi, nhanh như một cơn gió thổi tung lên những cánh hoa táo đã xoăn lại trong tiết trời xuân còn giá lạnh hay đám lá vàng trong sắc thu.

Nếu đêm sập xuống trước khi kịp xong việc, cô sẽ ngủ ngay trong vựa cỏ khô. Sẽ chẳng ai quan tâm hỏi xem cô thường ngủ ở đâu hơn là cái cách họ để ý tới lũ sóc đang chạy dọc hàng rào hay ngắm nhìn những cánh hoa kế tung bay lên trời.

Vì thế, Margaret chẳng bao giờ mơ mình sẽ được mời lên ngồi trước lò sưởi ấm áp như thế này. Quả là rất tuyệt! Bên ngoài, những bông tuyết uể oải đập mình vào mấy tấm cửa kính và tan biến. Đêm đã xuống, tối đen và dài dằng dặc. Với những ai không nhà, không cửa thì bóng đêm như con quái vật hoang tàn mà ở đó mỗi chiếc ống khói vọng ra giai điệu bức bối khi gió thổi qua. Ở trang trại Thresholds có rất nhiều ống khói. Nơi này thật tuyệt, còn chủ nông trang là một người đàn ông giàu có, được nhiều người yêu mến.

Margaret rùng mình trước ý nghĩ mình đang ở trong phòng khách với chủ trang trại Thresholds và người đàn ông đó có vẻ như sắp nói chuyện với cô. Ông chủ trang trại ngồi ở mé bên kia lò sưởi, trong khi người hầu gái bước tới, đặt xuống bàn bộ dao dĩa cùng thịt bò, thịt hun khói, chút khoai tây.

Margaret đứng dậy. Cô nghĩ có lẽ đã tới lúc trở về với cái vựa cỏ khô hiếu khách sau một tách trà nóng, ấm áp ở nhà bếp. Thật tuyệt đã được ngồi ở đây, bên chiếc lò sưởi này, lặng lẽ tận hưởng giây phút nghỉ ngơi giữa những thứ đồ đẹp, tinh tế trong căn phòng. Đây có lẽ là ba mươi phút tuyệt diệu nhất trong đời mà cô chưa từng bao giờ mơ tới và sẽ nhớ mãi…

Đúng lúc cô nhẹ nhàng định đi ra phía cửa thì người chủ trang trại ngẩng lên nhìn thẳng vào cô bằng đôi mắt màu hạt dẻ. Ánh mắt như dòng thác ngập tràn cơ thể cô, khiến cô không sao bước tiếp được nữa. Ánh mắt đó chỉ xuất hiện mỗi khi người chủ Thresholds xúc động mạnh mẽ. Người ta rất ít khi nhìn thấy ánh mắt đó. Ánh mắt như vô cùng tận trong cái không gian hữu hạn ấy làm thay đổi mọi giá trị. Chưa bao giờ trong vòng mười lăm năm qua cô nhìn thấy ánh mắt đó, dù rằng cô vẫn lui tới Thresholds sửa chữa ghế thường xuyên.

Ánh mắt dữ dội khiến Margareth cảm thấy ngột ngạt. Cô đứng đó, ánh lửa bập bùng nhảy múa trong lòng bàn tay; những ngón tay run rẩy vò tấm tạp dề, khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh một người gặt lúa đang sắp cúi xuống ôm bó lúa của mình lên vậy. Mặt cô tái đi.

Người hầu gái tay còn đang cầm ấm trà cũng quay nhìn, sửng sốt. Margaret run rẩy, không nói thành lời. Người chủ trang trại bỗng cất tiếng, hơi to một cách không tự nhiên, mắt vẫn nhìn thẳng vào Margaret:

- Xin… hãy ở lại!

Lời khẩn cầu vỡ ào như thể đã có cả khối nước lớn vỡ ra từ con đập nào đó bên trong anh ta vậy.

Vẫn bằng giọng nói như vỡ òa đó, người chủ trang trại lập bập: “Xin hãy ở lại đây đêm nay… và tất cả những đêm khác trong đời…”.

Nói tới đó, người chủ trang trại bình tĩnh trở lại. Dường như dòng thác vỡ òa từ con đập nào đó trong anh đã tìm được đường chảy vào thung lũng sau bao nhiêu năm chờ đợi để dám tuôn trào.

Margaret bất động, không nói được nửa câu. Người chủ trang trại vội nói:

- Nào, chúng ta hãy ngồi xuống và cùng ăn bữa muộn!

Quay sang người hầu gái, anh nói nhanh: “Dọn giường cho quý cô đây nhé!”.

Nói xong chừng đó, người chủ trang trại thở hắt ra như một vận động viên bơi lội vừa kết thúc đường đua xanh. Còn Margaret, thánh thiện và trong sáng, chẳng có gì ngoài đôi bàn tay của một nữ thần, để mặc ánh mắt người chủ trang trại say đắm lướt trên khuôn mặt mình. Như trong một giấc mơ, Margaret Mahuntleth, cô thợ sửa ghế không mảy may toan tính, đã đồng ý ở lại. Cô đồng ý ở lại sau chừng ấy năm qua lại và sửa ghế cho trang trại Thresholds.

Margareth đã trở thành bà chủ của Thresholds như thế!

Truyện ngắn của Mary Webb (Anh) THANH GIANG (dịch)

Nguồn QĐND: http://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/van-hoc-nghe-thuat/co-tho-sua-ghe-552323