Dell và hành trình tìm lại ánh hào quang

Sau nhiều lần lên sàn, Dell vẫn nằm dưới quyền của nhà Dell, còn nhà sáng lập Michael Dell cũng là nhà sáng lập hiếm hoi trong kỷ nguyên máy tính đời đầu vẫn đang điều hành tập đoàn của mình.

Biểu tượng của công ty sản xuất máy tính xách tay Dell Technologies Inc. Ảnh: Reuters

Ngành công nghệ máy tính từ trước đến nay vẫn luôn được coi là một trong những ngành công nghiệp “không khoan nhượng”.

Trong số các ông lớn đã được người tiêu dùng toàn cầu thuộc nằm lòng như Apple, Asus, HP, Vaio,… thì không thể không kể đến Dell, hãng máy tính nổi tiếng với lịch sử gần 40 năm phát triển và đến nay đã trở thành công ty có thu nhập lớn hàng đầu tại Mỹ.

* Những năm đầu khởi nghiệp

Từ căn phòng ký túc xá tại Đại học Texas năm 1984, với số vốn ban đầu chỉ 1.000 USD, cậu sinh viên của Đại học Austin tại Texas Michael Dell đã thành lập tập đoàn máy tính của riêng mình với tên gọi lúc đó là PC’s Limited.

Không như nhiều thương hiệu nổi tiếng khác được thành lập từ lâu với những ngành nghề đa dạng, Dell tập trung vào mảng sản xuất máy tính ngay từ những ngày đầu.

Một năm sau khi được thành lập, công ty đã sản xuất được chiếc máy tính đầu tiên với tên gọi Turbo PC và bán chúng với giá lên tới 795 USD.

Chiếc máy tính này xuất hiện trên nhiều tạp chí chuyên ngành trên toàn nước Mỹ, nơi mà người dùng có thể đặt hàng hoặc yêu cầu tùy chỉnh cho chiếc máy tính của mình. Trong năm đầu tiên hoạt động, công ty đã thu về tới 73 triệu USD, một con số tương đương với hàng trăm triệu USD vào thời điểm hiện tại.

Chiếc máy tính đầu tiên do Dell sản xuất - Turbo PC (Ảnh Dell)

Đến năm 1987, công ty chính thức lấy tên theo họ của nhà sáng lập là Dell thay cho PC’s Limited và bắt đầu công cuộc mở rộng trên toàn cầu. Chỉ một năm sau khi thay tên đổi họ, vốn hóa thị trường của Dell đã tăng từ 30 triệu USD lên 80 triệu USD thông qua việc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) 3,5 triệu cổ phiếu với mức giá 8,5 USD/cổ phiếu.

Việc làm ăn của Dell ngày một phát triển với doanh thu lên tới 679 triệu USD vào năm 1992. Cũng trong năm đó, công ty được đưa vào danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới của tạp chí Fortune lần đầu tiên, góp phần giúp Michael Dell trở thành giám đốc điều hành trẻ nhất trong nhóm các doanh nghiệp thuộc Fortune 500.

Từ năm 1997 đến năm 2004, Dell có được sự tăng trưởng ổn định và giành được thị phần từ những đối thủ cạnh tranh ngay cả trong thời kỳ ngành công nghiệp sản xuất máy tính cá nhân suy thoái.

Trong cùng thời gian, các đối thủ của công ty như Compaq, Gateway, IBM, Packard Bell và AST Research đã phải vật lộn trong việc giữ thị phần với bối cảnh thị trường ảm đạm như vậy.

Với sự phát triển mạnh mẽ của mình, năm 1999, Dell đã vượt qua Compaq để trở thành nhà sản xuất PC lớn nhất thế giới. Mặc dù ba năm sau đó, Compaq đã hợp nhất với Hewlett-Packard, nhà sản xuất PC lớn thứ tư thời bấy giờ để giành lại vị trí số một về thị phần sản xuất máy tính cá nhân. Tuy nhiên họ chỉ giữ được nó trong một thời gian ngắn và nhanh chóng bị Dell giành lại vị trí dẫn đầu.

Những năm đầu của thế kỷ 21 thực sự là khoảng thời gian trong mơ của Dell với những bước nhảy vọt cả về công nghệ lẫn doanh thu và thị phần trong ngành. Ngoài mảng kinh doanh truyền thống, Dell còn phát triển thêm sang mảng game khi mua lại thương hiệu máy tính Alienware, một thương hiệu vô cùng nổi tiếng với cấu hình mạnh mẽ, phục vụ được nhu cầu của những người chơi ở mức cao nhất.

Giữa đỉnh cao đó, Michael Dell bất ngờ từ chức CEO và nhường lại quyền quản lý cho Kevin Rollins vào năm 2004, thời kỳ đi xuống của Dell cũng bắt đầu từ đây.

Một thiết kế máy tính nổi bật của Dell. Ảnh: TTXVN

* Giai đoạn thoái trào...

Một năm sau khi Michael Dell từ chức, mặc dù lợi nhuận và doanh thu tiếp tục tăng, song tốc độ tăng trưởng doanh số bán hàng của công ty chậm lại đáng kể. Cổ phiếu của doanh nghiệp mất tới 25% giá trị trong năm đó.

Doanh số bán hàng của công ty tăng trưởng chậm lại là do sự bão hòa của thị trường máy tính cá nhân, vốn đem lại tới 66% doanh thu cho hãng. Lợi thế về giá bán và chất lượng của Dell không còn được như trước, khi những đối thủ bám đuổi là Acer và HP bắt kịp được hãng nhờ vào việc cải tiến công nghệ sản xuất.

Trong bối cảnh laptop (máy tính xách tay) trở thành phân khúc phát triển tốt nhất của ngành sản xuất máy tính cá nhân vào thời điểm này, hãng bắt đầu sản xuất những dòng laptop giá rẻ tại Trung Quốc như nhiều doanh nghiệp khác trong ngành, qua đó xóa bỏ lợi thế về chi phí sản xuất của mình so với các đối thủ.

Thêm vào đó, việc phụ thuộc vào sản xuất máy tính, thay vì thâm nhập vào các phân khúc kinh doanh ngoài PC như lưu trữ, dịch vụ và máy chủ trong khi nhu cầu về loại sản phẩm này giảm buộc Dell phải giảm giá thành sản phẩm.

Bên cạnh đó, Dell tiếp tục trung thành với kênh bán hàng trực tiếp thay vì đưa sản phẩm qua các cửa hàng điện tử, vốn rất phát triển và thu hút nhiều khách hàng vào thời điểm này.

Không dừng lại ở đó, mức chi tiêu thấp của Dell cho các hoạt động nghiên cứu (R&D) so với các đối thủ như IBM, Hewlett Packard và Apple đã khiến công ty bị tụt lại phía sau trong việc tiếp cận vào các phân khúc sinh lời hơn, chẳng hạn như máy nghe nhạc MP3 và các thiết bị di động sau này.

Điểm trừ lớn nhất của Dell kể cả trong giai đoạn phát triển mạnh nhất của mình đó là dịch vụ khách hàng. Dịch vụ khách hàng của Dell được đánh giá là kém hơn nhiều so với các đối thủ, và vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn khi họ chuyển các trung tâm cuộc gọi ra nước ngoài.

Cùng với việc tốc độ tăng trưởng vượt xa cơ sở hạ tầng hỗ trợ kỹ thuật của hãng, số lượng khách hàng quay lưng lại với công ty ngày một nhiều hơn.

Trong thời gian này, Dell đã nhận rất nhiều chỉ trích về chất lượng sản phẩm. Tháng 8/2006, Dell đã phải thu hồi hàng loạt pin máy tính do một chiếc laptop của hãng bốc cháy. Việc này gây ra tiếng xấu cho công ty, mặc dù sau đó các cuộc điều tra kết luận lỗi không thuộc về họ.

Năm 2006 đánh dấu năm đầu tiên Dell tăng trưởng chậm hơn so với toàn bộ ngành công nghiệp PC. Tới quý 4/2006, Dell mất danh hiệu nhà sản xuất PC lớn nhất thế giới vào tay đối thủ Hewlett Packard.

Cuộc khủng hoảng trên đã buộc ban lãnh đạo công ty phải đưa ra những sự thay đổi. Năm 2006, Dell đã chi 100 triệu USD chỉ trong vài tháng để cải thiện các vấn đề về dịch vụ khách hàng. Tháng 1/2007, Rollins từ chức CEO sau những thất bại nặng nề mà công ty phải gánh chịu, người thay thế ông không phải ai xa lạ mà chính là Michael Dell.

* ...đến “thương vụ thế kỷ”

Trong một nỗ lực cứu lấy đứa con tinh thần của mình, năm 2013 Michael Dell đã quyết định mua lại toàn bộ cổ phiếu của Dell trên thị trường để biến Dell thành công ty tư nhân.

Giá trị của thương vụ đó khoảng 24,4 tỷ USD. Là công ty tư nhân ông sẽ có nhiều sự kiểm soát và theo đuổi những giá trị lâu dài hơn so với việc đáp ứng những yêu cầu ngắn hạn từ các cổ đông phố Wall lúc nào cũng đói cổ tức và lợi nhuận.

Hai năm sau, vào năm 2015, ông đưa ra quyết định mạo hiểm nhất trong đời là mua lại EMC với giá 67 tỷ USD, “canh bạc" sáp nhập kinh điển này của Dell khiến giới công nghệ toàn cầu ngả mũ, khi Dell đi vay gần 50 tỷ USD để "nuốt cá lớn" EMC, cứu công ty khỏi cuộc thoái trào máy tính cá nhân.

Michael Dell đã luôn khao khát sở hữu EMC, công ty mẹ của Vmware, gã khổng lồ trong lĩnh vực điện toán đám mây được định giá 35 tỷ USD, trong nhiều năm.

Ông từng ngỏ ý mua lại công ty vào năm 2008 nhưng thất bại do khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2015, ông và Egon Durban, đồng sáng lập quỹ Silver Lake, thường xuyên gặp gỡ các giám đốc điều hành EMC trên toàn thế giới để thuyết phục họ nhượng lại EMC.

Thương vụ cuối cùng cũng có tiến triển, nhưng cặp đôi đứng trước thách thức phải tìm ra 65 tỷ USD tiền mặt để trả cho cổ đông EMC. Nhờ sự trợ giúp từ Jamie Dimon, tỷ phú kiêm CEO ngân hàng lớn nhất nước Mỹ JPMorgan Chase, thương vụ tiếp quản khổng lồ trị giá 67 tỷ USD đã được tiến hành.

Sau thương vụ, Dell phải gánh khoản nợ lên tới 50 tỷ USD. Thế nhưng ông nhanh chóng hưởng thành quả khi giá trị VMware tăng vọt lên 50 tỷ USD và trở thành "cây hái tiền" cho bộ đôi Dell - Durban.

Vào năm 2018, bộ đôi đã rút 14 tỷ USD tiền mặt từ VMware để mua lại cổ phiếu từ các cổ đông. Đồng thời, Dell cũng đưa VMware niêm yết thị trường công khai dưới danh nghĩa công ty con thuộc Dell Technologies.

Ban đầu, các nhà đầu tư không tỏ ra hứng thú với VMware do lo ngại tập đoàn mẹ Dell Technologies đang nợ nần chồng chất. Thế nhưng không lâu sau đó, giá cổ phiếu tăng vọt, đem về cho Michael Dell hơn 20 tỷ USD.

Ông tiếp tục rút thêm 9 tỷ USD nữa từ VMware để trả khoản nợ vay LBO (là một hình thức mua lại và sáp nhập doanh nghiệp bằng nguồn tài chính đi vay) cho ngân hàng JPMorgan Chase.

Giờ đây, Dell đang dần làm chủ công ty của mình. Trước khi thương vụ LBO diễn ra, ông sở hữu 15,6% cổ phần Dell Technologies trị giá gần 4 tỷ USD. Hiện tại, nhờ những thủ thuật tài chính tài tình, Dell sở hữu 52% cổ phần Dell Technologies và 42% cổ phần Vmware, tương đương 40 tỷ USD.

Hiện nay tập đoàn Dell vẫn nằm dưới quyền của nhà Dell dù đã nhiều lần lên sàn. Còn Michael Dell cũng là một trong những nhà sáng lập hiếm hoi trong kỷ nguyên máy tính đời đầu vẫn đang điều hành tập đoàn của mình.

Các tỷ phú nổi tiếng khác trong ngành công nghệ, như Bill Gates, Larry Ellison hay Steve Ballmer đều đã chuyển hướng sang hoạt động từ thiện hoặc dành thời gian đầu tư vào các loại tài sản tiêu khiển như đảo nghỉ dưỡng, các đội bóng bầu dục...

Trong khi các đối thủ cũ đã chuẩn bị "nghỉ hưu", Dell lại lãnh đạo hai công ty lớn là Dell Technologies và VMware, công ty con chủ lực thuộc Dell Technologies chuyên về mảng cơ sở hạ tầng điện toán đám mây.

Mọi người đều đang đổ dồn ánh mắt vào Amazon, Microsoft hay Google mà không nhận ra rằng Dell đã âm thầm tích lũy thị phần trong lĩnh vực công nghệ doanh nghiệp bấy lâu nay./.

Minh Hằng (Tổng hợp)

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/dell-va-hanh-trinh-tim-lai-anh-hao-quang/230438.html