Điểm tựa của bản làng

Đối với bà con đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô ở thôn Kỳ Nơi  (xã A Túc, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), ông Côn Yên không chỉ là người chỉ đường dẫn lối cho bà con phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, mà còn là 'bà đỡ' của nhiều hoàn cảnh neo đơn không nơi nương tựa. 

Ông Côn Yên.

Đi trước, làm đầu

Nằm cạnh con sông Sê Pôn, cứ đến mùa mưa là lũ dồn đất, đá vùi lấp vùng đất canh tác lúa nước của người dân thôn Kỳ Nơi. Qua mỗi mùa lũ, muốn có lương thực, rau màu phục vụ cuộc sống, không còn cách nào khác, bà con phải bỏ công sức loại bỏ lớp cát, đá ấy. Bởi vậy mà nhiều người tỏ ra chán nản, quay lại lối canh tác theo kiểu "phát, cốt, đốt, trỉa" trên rẫy.

Ấy thế mà mấy năm trở lại đây, người dân Kỳ Nơi tiếp tục kiên trì theo ông Côn Yên trồng lúa nước. Hỏi: "Sao già làng có thể khiến mọi người thay đổi?", ông cười lớn: "Muốn bà con từ bỏ cái cũ, làm theo cái mới thì trước hết phải làm cho họ tin tưởng, quan trọng hơn là phải cho họ thấy được thành quả lao động của mình. Nói thì dễ, làm mới thấy khó. Nhưng khó vẫn phải quyết tâm thuyết phục bà con...".

Sau mùa lũ năm 2005, ông Côn Yên ngày hai buổi cặm cụi ra bờ suối, chặt cây, khoanh vùng thửa ruộng đã bị cát lấp rồi hì hục xúc đổ cát lên ven bờ. Người dân trong bản đi qua thấy vậy chỉ biết lắc đầu và bảo ông: "Còng lưng xúc cát như thế làm gì cho vất vả".

Ông Côn Yên biết, nếu ngay lúc đó dù có nói thế nào cũng bằng thừa nên ông chọn cách im lặng. Mùa lúa năm ấy, 5 sào lúa nước của gia đình ông cho thu hoạch khấm khá. Nhìn những bông lúa trĩu hạt, trong lòng những ai đi ngang qua ruộng cũng thầm ao ước giá mình có ruộng tốt như thế. Và ông Côn Yên bắt đầu đi đến từng nhà động viên bà con tìm lại những thửa ruộng của mình đã bị lũ cát vùi lấp.

Rồi trời không phụ công người, mùa tiếp đó, 3ha lúa ven suối của bà con dân bản Kỳ Nơi được mùa. Ai nấy vui như mở cờ trong bụng: "Côn Yên nói đúng, thiên tai, bão lũ có thể vùi lấp ruộng đất và cuốn trôi của người ta nhiều của cải, nhưng không bắt con người đầu hàng trước cái nghèo đói. Phải học theo kinh nghiệm làm ăn của ông mới mong thoát được cái nghèo". Rồi nhà nhà tự nguyện theo ông Côn Yên xúc lớp cát bạc màu, ngăn đập trồng cây lúa nước.

Phát triển kinh tế vẫn chưa đủ, để thoát nghèo bền vững, phải vận động bà con nhận ra sự quan trọng của con chữ. Ông Côn Yên nghĩ vậy, nhưng đó lại là vấn đề nan giải nhất của đồng bào vùng cao, khi mà cuộc sống mỗi ngày của bà con quanh năm vẫn phải đối mặt với sự thiếu đói thì "chữ nghĩa, văn chương không bằng cái xương con cá lẹp". Một lần nữa, ông Côn Yên lại lấy chính gia đình mình "làm mẫu".

Hàng ngày ông cần mẫn ra ruộng, hết trồng lúa lại sang chăm sóc tiêu, trồng sắn, tạo điều kiện cho con cái tập trung thời gian tới trường học tập. Hai cô con gái của ông lần lượt tốt nghiệp cấp 3 rồi Đại học Sư phạm Huế và trở thành cô giáo. Nhìn các con của ông thoát cảnh chân lấm tay bùn, bà con thấy ưng cái bụng và ai cũng muốn con mình được như vậy nên chẳng ai bảo ai, mọi người cũng dành những điều kiện tốt nhất cho con cái được đến trường.

Thêm vào đó, nhờ có sự quan tâm của Nhà nước, việc đến trường của con trẻ được hỗ trợ nên tỷ lệ vận động đưa trẻ tới trường những năm sau đó được tăng cao. Đến nay, bản Kỳ Nơi không còn tình trạng học sinh nghỉ, bỏ học giữa chừng.

Cơm nhà, việc người

Không chỉ giúp bà con cách thức làm ăn, ông Côn Yên còn được bà con nể trọng bởi cách ứng xử đúng mực. Ông như vị "quan tòa" công minh của bản làng, hễ có vướng mắc gì trong cuộc sống đều tìm đến ông. Bởi thế mà ông Côn Yên thường được UBND xã A Túc "nhờ vả".

Ông Côn Giới, Phó Chủ tịch UBND xã A Túc cho biết: "Trong quá trình xây dựng nếp sống mới, ở vùng cao này có nhiều tập tục lạc hậu rất khó bỏ, những vụ việc như thế, xã đều mời Côn Yên vào ban hòa giải. Ông giải thích chí lý, chí tình, thuận lòng dân, vì thế nhiều hủ tục đã được xóa bỏ. Hàng trăm vụ tranh chấp, xích mích được hòa giải một cách êm đẹp".

Với suy nghĩ, ngày xưa đánh Pháp, đánh Mỹ, cả bản làng đều chung tay góp sức, hôm nay đuổi cái nghèo cũng cần đến sự đoàn kết, ông Côn Yên vận động bà con góp quỹ, cho các hộ nghèo vay vốn không lãi suất để phát triển kinh tế, xây dựng các công trình cần thiết cho sinh hoạt. Ông quan tâm đặc biệt đến người già neo đơn, không nơi nương tựa. Tấm lòng tương thân tương ái ấy khiến cả bản làng, ai cũng cảm phục.

Dù cuộc sống chưa thực sự giàu có, nhưng ông đã giúp đỡ nhiều người neo đơn có được những năm tháng cuối đời đỡ tủi thân. Đơn cử như ông nuôi mẹ Căn Ương, dựng hẳn một ngôi nhà trước sân để tiện chăm sóc bà suốt 4 năm ròng rã, cho đến khi bà qua đời. Một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn như Giã Biệt, Hồ Thị Leng cũng được ông tận tình giúp đỡ.

Chia tay, tôi cứ suy nghĩ mãi về "cái lý" của ông Côn Yên: "Mình từng đi nhiều, biết nhiều, nhưng chỉ mình mình biết thôi chưa đủ mà phải đem cái biết ấy để bà con đi sau cùng biết thì đó mới gọi là biết! Sống trong cộng đồng thì cần có sự san sẻ, gắn kết. Một người làm không được thì nhiều người sẽ làm được. Một lần không được thì lần hai, lần ba...".

Cái lý ấy đã theo suốt cuộc đời ông, từ khi đi đánh giặc khắp các chiến trường Bình Trị Thiên, rồi vào tận núi rừng Đông Giang (Quảng Nam). Sau năm 1968, ông được cử ra Bắc học trường Đặc công ở Sơn Tây. Tiếp đó, năm 1971, ông được điều về học trường Công an ở Vĩnh Phúc. Một năm sau, ông quay về Quảng Trị nhận nhiệm vụ, làm Công an ở huyện Hướng Hóa cho đến năm 1989 thì nghỉ hưu. Tuy đã nghỉ hưu, ông tiếp tục tham gia các hoạt động ở địa phương, cho đến năm 2000, ông chuyển gia đình về quê ở bản Kỳ Nơi sinh sống để làm theo "cái lý" của mình.

Trúc Hà- Vĩnh Yên

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/diem-tua-cua-ban-lang/