Doanh nghiệp Việt tăng 51,6% sau 5 năm, cải thiện mạnh về hiệu suất kinh doanh

Các khu vực doanh nghiệp tăng về số lượng và mở rộng nhiều ngành nghề sản xuất, gia tăng quy mô, đẩy mạnh tái cơ cấu, ứng dụng khoa học công nghệ, nhờ đó đã nâng cao năng suất, cải thiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh so với 5 năm trước.

Đây là bức tranh tổng thể về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam năm 2016 vừa được Tổng cục Thống kê công bố tại kết quả chính thức tổng điều tra kinh tế năm 2017.

Số doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng nhanh, doanh nghiệp lớn tăng mạnh về quy mô lao động

Theo kết quả tổng điều tra, năm 2017, cả nước có gần 517.900 doanh nghiệp (DN) đang tồn tại, tăng 51,6% so với năm 2012.

Trong đó tổng số DN thực tế đang hoạt động điều tra được là 505.100 DN và 12.860 DN đã đăng ký nhưng đang đầu tư, chưa đi vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Trong số DN, có 10.100 DN lớn, tăng 29,6% (tăng gần 2.300 DN) so với thời điểm 1/1/2012 và chiếm tỷ lệ khiêm tốn với 1,9%.

Số doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ (DNVVN) là 507.8600 DN, tăng 52,1% (tương đương 174.000 DN) so với thời điểm 01/01/2012, chiếm 98,1%; trong đó DN vừa có gần 8.500 DN, tăng 23,6% (tương đương gần 1.600 DN), chiếm 1,6%; DN nhỏ là 114.100 DN, chiếm 22,0%, tăng 21,2% (tương đương gần 20 nghìn DN) và DN siêu nhỏ là 385.300 DN, chiếm cao nhất với 74,4%, tăng 65,5% (tương đương 152.000 DN).

Xét về khu vực, doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở vùng Đông Nam bộ với gần 216.200 DN, chiếm tới 41,7% tổng số DN của cả nước, trong đó lớn nhất là TP.HCM với 172.600 DN, chiếm tới 33,3% tổng số DN của cả nước và đây cũng là vùng thu hút nhiều lao động nhất trong cả nước với hơn 5,3 triệu lao động, chiếm 37,7% số lao động trong các DN của cả nước.

Vùng Đồng bằng sông Hồng đứng thứ 2 với số DN đạt 161.100 DN, chiếm 31,1% số DN của cả nước, lao động đạt gần 4,6 triệu người chiếm 32,5%. Vùng Tây Nguyên có ít DN nhất với 13.300 DN, chiếm khoảng 2,6%.

Đáng chú ý, số lượng DNVVN tăng nhanh trong giai đoạn 2012-2017 nhưng số lao động của doanh nghiệp này lại tăng thấp hơn so với DN lớn. Bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số DNVVN tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,3%.

Tuy nhiên, lao động trong các DN lớn tăng nhanh hơn so với các DNVVN, số lao động hiện đang làm việc trong các DN lớn tăng 33,8%, trong khi lao động trong các DNVVN chỉ tăng 22,1% so với thời điểm 1/1/2012. Bình quân năm giai đoạn 2012-2017 lao động trong DN lớn tăng 6% và DNVVN chỉ tăng 4,1%.

Xét theo loại hình DN, số lượng DN nhà nước (DNNN) giảm 18,4% và lao động giảm tới 23,1% so với thời điểm 1/1/2012. Bình quân giai đoạn 2012-2017 mỗi năm giảm 4,0% về số DN và 5,1% về số lao động. Điều này cho thấy chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại các DNNN đã có tiến triển nhưng quá trình thực hiện còn khá chậm.

Số doanh nghiệp FDI tăng tới 54% và lao động tăng tới 62,8% so với thời điểm 1/1/2012; bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số doanh nghiệp FDI tăng 9% và lao động tăng 10,2%, cao hơn 2 lần so với DNNN.

Số DN ngoài nhà nước tại thời điểm 1/1/2017 tăng 52,3% và lao động tăng 27,9%, cao hơn DNNN nhưng thấp hơn doanh nghiệp FDI; bình quân năm giai đoạn 2012-2017 số DN ngoài nhà nước tăng 8,8% và lao động tăng 5%. Kết quả này cho thấy DN FDI thu hút nhiều lao động nhất trong 5 năm qua góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Quy mô vốn và doanh thu gia tăng

Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh trong năm 2016 của doanh nghiệp được cải thiện hơn 5 năm trước đây. Mặc dù số lượng DNNN chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn với 0,5% tổng số DN, nhưng nguồn vốn chiếm tới 28,4% tổng nguồn vốn. Vốn bình quân trên một DN năm 2016 đạt 51,6 tỷ đồng/DN, tăng 5,8 tỷ đồng/DN so với năm 2011.

Kết quả tổng điều tra cho thấy doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp năm 2016 đạt 17.858 nghìn tỷ đồng, tăng 71,6% (7.450 tỷ đồng) so với năm 2011, doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 tăng 11,4% (tương đương 1.400 nghìn tỷ đồng).

Khu vực DN ngoài nhà nước có doanh thu thuần tăng 78,8% (tương đương 4.402 nghìn tỷ đồng) so với năm 2011 và chiếm tỷ trọng cao nhất với 55,9% tổng doanh thu thuần của toàn bộ khu vực DN. Doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 khu vực này đạt cao nhất với 880,5 nghìn tỷ đồng (tăng 12,3%).

Khu vực DN FDI có doanh thu thuần tăng mạnh nhất với 134,5% so với năm 2011, chiếm 27,4% tổng doanh thu thuần, doanh thu thuần bình quân năm đạt 560,7 nghìn tỷ đồng (tăng 18,6%), tuy nhiên lại thấp hơn khu vực DN ngoài nhà nước.

Tỷ trọng doanh thu thuần thấp nhất là khu vực DNNN chỉ chiếm 16,7%, doanh thu thuần của khu vực DN này tăng thấp nhất với 244 nghìn tỷ đồng (tăng 8,9%), doanh thu thuần bình quân năm tăng 1,7% (tương đương 48,8 nghìn tỷ đồng).

Hiệu suất sinh lời trên tài sản (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản) năm 2016 đạt 2,7% (cao hơn mức 2,5% của năm 2011). Khu vực doanh nghiệp FDI có hiệu suất sinh lời trên tài sản năm 2016 đạt cao nhất và vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác với 6,9% (cao hơn so mức 4,8% của năm 2011), tiếp đến là khu vực DNNN đạt 2,6% (thấp hơn mức 3,2% của năm 2011) và thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước 1,4% (năm 2011 là 1,2%).

Xét theo khu vực kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng có hiệu suất sinh lời trên tài sản cao vượt trội so với hai khu vực còn lại với 4,8% (cao hơn mức 3,8% của năm 2011), hai khu vực còn lại là nông, lâm nghiệp và thủy sản và dịch vụ hiệu suất sinh lời trên tài sản đạt tương ứng là 2,0% và và 1,6%.

Hiệu suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2016 đạt 4% (cao hơn mức 3,2% của năm 2011).

Doanh nghiệp FDI và DNNN là hai loại hình doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2016 đạt khá cao với 6,7% và 6,6% (năm 2011 là 5,2% và 5,1%), các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tỷ suất sinh lời trên doanh thu đạt thấp nhất với 1,9% (năm 2011 là 1,5%).

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có hiệu suất sinh lời trên doanh thu đạt cao nhất với 5,3%, thấp hơn nhiều so với năm 2011 (20,0%) do trong năm 2011 sản phẩm mủ cao su có giá trị và lợi nhuận cao vượt trội; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 4,9% (cao hơn mức 3,8% của năm 2011); thấp nhất là khu vực dịch vụ với 3,0% (cao hơn mức 2,5% của năm 2011).

Đáng chú ý, kết quả tổng điều tra đã chỉ ra rằng, trong năm 2016 mặc dù số lượng DNNN ít nhưng thuế và các khoản đã nộp ngân sách bình quân một DN của khu vực DNNN đạt cao nhất với 104 tỷ đồng/DN cao hơn rất nhiều so với DN FDI là 18 tỷ đồng/DN và DN ngoài nhà nước là 1 tỷ đồng/DN.

Mức thuế và các khoản đã nộp ngân sách của các DN lớn chiếm tới 67,5%, các doanh nghiệp nhỏ chiếm 19,4% còn lại là các DN vừa và DN siêu nhỏ. Xét theo quy mô DN thì mức thuế và các khoản đã nộp ngân sách bình quân trên một DN ở các DN lớn đạt 57,8 tỷ đồng/DN, DN vừa là 8 tỷ đồng/DN và DN siêu nhỏ đóng góp ít nhất với 122 triệu đồng/DN.

Hiếu Minh

Nguồn ĐTCK: http://tinnhanhchungkhoan.vn/thuong-truong/doanh-nghiep-viet-tang-516-sau-5-nam-cai-thien-manh-ve-hieu-suat-kinh-doanh-242254.html