Đồng bào Khơ Mú cầu mùa

Lễ cầu mùa của dân tộc Khơ Mú (huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An) là một nghi lễ nông nghiệp quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần, thể hiện ước muốn mùa màng bội thu, cuộc sống no ấm, đầy đủ và được lưu giữ từ đời này qua đời khác.

Sau phần lễ, mọi người lại cùng nhau vui hội tưng bừng với những điệu múa, câu hát truyền thống.

Sau phần lễ, mọi người lại cùng nhau vui hội tưng bừng với những điệu múa, câu hát truyền thống.

Nghi lễ mang đậm nét văn hóa truyền thống

Cũng như nhiều dân tộc anh em khác, đồng bào Khơ Mú quan niệm, vạn vật đều có linh hồn và các yếu tố thiên nhiên như: Trời, đất, nương rẫy đều có quan hệ mật thiết với đời sống và sản xuất của con người. Từ niềm tin vào các thế lực siêu nhiên như vậy, đồng bào Khơ Mú từ thuở sơ khai đã có nhiều nghi lễ thờ cúng thể hiện ước muốn mùa màng bội thu, cuộc sống no ấm, đầy đủ, như khát vọng ngàn đời của các cư dân nông nghiệp khác.

Lễ cầu mùa được tổ chức thường niên mỗi năm một lần, lễ diễn ra trong một ngày nhưng không trùng với ngày kiêng kỵ của nhà thầy cúng (tức không trùng ngày ông bà, bố mẹ mất). Sau khi gieo trồng cây lúa lên cao bằng gang tay hay bằng đầu gối thì đồng bào Khơ Mú tiến hành làm lễ, nhằm thể hiện lòng thành kính đến các vị thần linh. Nghi lễ cầu mùa của dân tộc Khơ Mú được tổ chức cho nhiều gia đình cùng khu vực canh tác nương rẫy hoặc có thể làm lễ chung cho cả bản tùy vào điều kiện canh tác hàng năm. Trước khi tổ chức lễ hội khoảng một đến hai tháng các gia đình sẽ họp bàn và thống nhất việc chọn ngày tốt tháng tốt, ấn định ngày tổ chức lễ, chuẩn bị đóng góp các lễ vật, phân công công việc tổ chức cúng lễ cầu mùa.

Thầy cúng Pịt Văn Hoàng (bản Xốp Pu, xã Yên Na, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An) đọc lời khấn mời các vị thần linh về chứng giám buổi lễ.

Để tổ chức lễ cúng, bà con dân bản chuẩn bị các đồ dâng lễ gồm: 1 con lợn, 2 con gà, 2 vò rượu cần, 10 vò tượng trưng, 2 chai rượu, bông lúa, bông ngô, khoai sọ, 20 gói mọc, sóc, chuột, cá, chim, cơm lam, nhọc sóc, chuột, bạc nén, vòng tay, 1 chiếc váy, 1 cái khăn, 9 tấm vải thô trắng… cơm xôi mới, xôi cũ đựng vào 2 ép xôi khác nhau, xôi mới đầy hơn xôi cũ. Trong mâm cúng có ngô, khoai, sắn ý nghĩa từ nay trở đi chỉ có no đủ cơm xôi, không phải ăn ngô, ăn sắn, ăn khoai nữa. Bên cạnh là các dụng cụ: Dao, cuốc, xẻng, măng vầu, cày, bừa, dán hình nộm người canh nương rẫy, cây nêu.

Đến ngày đã định, vào buổi sáng sớm, mọi người trong bản có mặt đông đủ tại nương nơi diễn ra nghi lễ. Thầy cúng cùng với những người phụ lễ mang đồ lễ đến nơi có lán nương, thầy cúng nhờ các thành viên khác tham gia phụ lễ dựng một cái giàn để đặt đồ lễ, tiếng Khơ Mú gọi là “Rang tê”, được dựng bởi 4 cột tre, nối 4 xà giữa các cột và đặt một cái phên đan bằng tre ở giữa, cao khoảng 80 cm, sau đó thầy cúng bày đồ lễ lên “Rang tê”.

Ngày hội đoàn kết của toàn cộng đồng dân tộc

Mọi thứ chuẩn bị xong, thầy cúng thắp một cây nến sáp ong trên mâm lễ, rót rượu vào hai chén. Lúc này, những người đi phụ thầy cúng tiến hành cắt tiết con lợn và hai con gà, đồng thời bôi tiết lên ba tấm phên đan (ta hlệ). Hai cái phên đan cắm hai bên mâm lễ, cái còn lại cắm phía thầy cúng, những tấm phên đan (ta hlệ) này để ngăn chặn tà ma không được mời gọi đến tranh phần các thần linh. Lúc này thầy cúng hướng về mâm lễ, chắp tay lạy bốn hướng và bắt đầu khấn với nội dung mời các vị thần linh, là ông chủ trời, chủ đất, ông chủ quản rừng cây, đồi núi, ông chủ quản muôn loài chim, thú, ông chủ mường, chủ bản, tất cả hãy về nhận đồ lễ, rồi phù hộ cho bà con dân bản vụ mùa cây trồng xanh tốt, không bị sâu bọ phá hoại, đến mùa bội thu, bà con no ấm và luôn nghi nhớ công ơn các vị thần linh.

Trước khi tiến hành các nghi lễ, đồng bào tái hiện việc gieo hạt, gặt lúa.

Sau khi cúng mời thần linh về chứng nhận đồ lễ, thầy cúng giao cho các thành viên phụ lễ mang ra chế biến, lợn và gà phải luộc chín nguyên con, còn các phần nội tạng của con lợn như: gan, tim, lòng non… đem nướng cho chín thơm.

Đồ lễ đã được nấu nướng chín, thầy tự tay bày đồ lễ, các thành viên khác tập trung phía đàng sau để nghe thầy cúng mời các thần linh về hưởng thụ đồ lễ và phù hộ cho dân bản. Khi mọi thứ đã chuẩn bị xong thầy cúng thắp một cây nến sáp ong trên mâm lễ, chắp tay lạy một lần và bắt đầu khấn với nội dung tương tự như trên. Trong lúc khấn, thầy cúng lấy tay bốc một miếng xôi nhỏ chấm vào đồ lễ, đồng thời đổ rượu, nước ra ngoài mâm lễ với quan niệm mời các vị thần linh hưởng thụ.

Trước khi tiến hành các nghi lễ, đồng bào tái hiện việc gieo hạt, gặt lúa.

Khi cúng xong, đội hậu cần được phân công trước đó sẽ chuẩn bị bày thức ăn tại chỗ cho cả bản. Tuy nhiên, trước khi dùng những thức ăn, đồ lễ đó, thầy cúng sẽ thay mặt dân bản xin phép các thần linh để được dùng những đồ dâng lễ. Chỉ phần lại mỗi thứ đồ lễ một ít trên mâm lễ. Điều đặc biệt là lượng thức ăn chỉ vừa đủ cho số người tham gia lễ ăn uống. Nếu thừa ra cũng không được mang về nhà. Mọi người chia nhau những miếng thịt của các con vật dâng lễ sau khi đã mời các vị thần linh, cùng uống rượu mừng, tất cả đều phải vui vẻ chúc mừng cho nhau mạnh khỏe, vạn sự tốt lành, mùa màng bội thu, cuộc sống no đủ.

Các lễ vật dâng cúng trong lễ cầu mùa của đồng bào Khơ Mú.

Sau khi kết thúc phần lễ, phần hội diễn ra tưng bừng vui tươi, mọi người cùng tham gia uống rượu cần, tổ chức hát tơm, nhảy múa cồng chiêng, tăng bu, au eo và các trò chơi truyền thống.

Hồng Minh

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/dong-bao-kho-mu-cau-mua-74172