Giảm thời gian thông quan nhờ quản lý rủi ro

Nhờ thu thập xử lý thông tin hồ sơ DN, phân tích thông tin để soi chiếu trước khi hàng đến cảng..., mỗi tháng, lực lượng Hải quan đã giải quyết thông quan cho gần 900 nghìn tờ khai XNK, tiết kiệm chi phí cho DN.

Hoạt động tại trung tâm máy soi container cố định Cục Hải quan Hải Phòng. Ảnh: Thái Bình.

Tìm DN tuân thủ... để áp dụng chế độ ưu tiên

Tính đến ngày 15/8, toàn ngành Hải quan đã thực hiện điều phối, đánh giá rủi ro phục vụ phân luồng quyết định kiểm tra hải quan đối với 7.278.646 tờ khai XNK, tương đương 856.311 tờ khai/tháng. Trong đó, luồng Xanh có 4.314574 tờ khai (chiếm 59,28%); luồng Vàng có 2.597.062 tờ khai (chiếm 35,68%); luồng Đỏ có 367.010 tờ khai (chiếm 5,048%).

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, từ năm 2012 đến 2017, trên toàn quốc có 108.242 DN hoạt động XNK. Số lượng DN tham gia XNK tăng mạnh và biến động qua các năm. Cụ thể, năm 2012 có 68.685 DN, đến năm 2017 là 81.864 DN (tăng 19,1%, tương đương 13.179 DN). Tuy nhiên các DN tham gia hoạt động XNK có quy mô vừa và nhỏ chiếm đa số trong cơ cấu, thường thiếu tính chuyên nghiệp, nguồn lực đầu tư cho hoạt động quản lý hạn chế nên dễ dàng bị mắc lỗi. Bên cạnh đó, số DN hoạt động XNK không thường xuyên chiếm tỷ lệ cao, mức độ bền vững trong hoạt động kinh doanh thấp, luôn tiềm ẩn rủi ro cao. Đây là thách thức cho cơ quan Hải quan trong hoạt động thu thập thông tin và xác định đối tượng kiểm soát trọng điểm.

Để thực hiện tốt công tác Quản lý rủi ro (QLRR), thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã ban hành Kế hoạch thu thập, xử lý thông tin QLRR, trong đó đặt mục tiêu thu thập, cập nhật thông tin của 30.000 hồ sơ DN hoạt động XNK, 100% DN kinh doanh kho ngoại quan, kinh doanh cảng, kho, bãi; 100% DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động, tạm dừng hoạt động. Song song đó, tập trung thu thập, cập nhật thông tin về hàng hóa XNK thuộc danh mục quản lý chuyên ngành, các mặt hàng trọng điểm, hàng hóa quá thời hạn làm thủ tục XNK tồn đọng tại kho, bãi, cảng; hàng hóa trước khi đến cảng…

Tính riêng trong kỳ (từ 16/7 đến 15/8), trong số 103.778 DN có 0,065 DN ưu tiên (68 DN); 11,22% DN tuân thủ (11.642 DN); 1,46% DN không tuân thủ (1.517 DN); 87,26% DN không đáp ứng các chỉ số tiêu chí đánh giá tuân thủ (90.551DN không thuộc các nhóm trên).

Nhờ thu thập thông tin từ nhiều nguồn, cơ quan Hải quan đã tập trung quản lý tuân thủ DN trên các mảng nghiệp vụ cơ bản như thu thập, cập nhật, quản lý thông tin về hồ sơ DN, đánh giá, phân loại DN; áp dụng chính sách quản lý tuân thủ và khuyến khích DN tự nguyện tuân thủ; phát triển quan hệ đối tác. Bên cạnh đó, cơ quan Hải quan cũng thường xuyên theo dõi, phân tích, đánh giá về tình hình hoạt động và chấp hành pháp luật của DN; tổng hợp, kiến nghị điều chỉnh các chế độ, chính sách, quy trình thủ tục, chế độ ưu tiên cũng như các chế độ đánh giá tuân thủ, phân loại rủi ro đối với DN hoạt động XNK, tạo thuận lợi cho DN tuân thủ tốt pháp luật. Mặt khác, kiểm tra đối với DN không tuân thủ nhằm góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao năng lực tuân thủ pháp luật của DN.

Biểu đồ thể hiện kết quả phân luồng: Xanh-Đỏ-Vàng (cập nhật đến ngày 15/8/2018). Nguồn: Tổng cục Hải quan.

Soi chiếu trước khi hàng đến cảng

Những năm gần đây, vai trò của công tác QLRR ngày càng được chú trọng, mở rộng về phạm vi và chuyên sâu về nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ áp dụng trong các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan như phân luồng quyết định soi chiếu hàng hóa NK trước khi làm thủ tục hải quan; phân luồng quyết định kiểm tra trong thực hiện thủ tục hải quan; phân luồng quyết định soi chiếu hàng hóa XK sau khi đã thông quan… Các hoạt động phân luồng quyết định kiểm tra này đều có sự liên kết, kế thừa theo chuỗi các quy trình quản lý và được dựa trên quy trình QLRR thống nhất; bước đầu đã đạt được những kết quả rõ rệt.

Có thể kể đến, thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP năm 2017 của Chính phủ, ngành Hải quan đã từng bước hoàn hiện cơ chế QLRR, thực hiện phân luồng trước khi hàng đến cảng để giải quyết thông quan hoặc giải phóng hàng hóa ngay khi đến cảng, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK.

Trước đây DN làm các thủ tục để xuất trình hàng hóa, vận chuyển container (từ nơi đã tập kết tại kho, bãi, cảng, khu vực cửa khẩu nhập) tới địa điểm soi chiếu theo chỉ dẫn phân luồng kiểm tra trên hệ thống hoặc chuyển luồng kiểm tra máy soi trong quá trình làm thủ tục tại chi cục hải quan. Hiện nay, bằng hoạt động thu thập, phân tích, đánh giá thông tin trước khi hàng đến, cơ quan Hải quan (lực lượng QLRR các cấp-PV) đã xác định và tổ chức thực hiện soi chiếu ngay từ khi container hàng hóa được xếp dỡ từ phương tiện vận tải NK và vận chuyển tới nơi tập kết sau khi soi chiếu.

Theo đánh giá của DN xuất nhập khẩu, nhờ soi chiếu trước đã làm giảm đáng kể về thời gian và chi phí của DN trong quá trình làm thủ tục hải quan, chi phí vận hành máy móc, tổ chức sản xuất của đơn vị kinh doanh cảng, đồng thời giúp cho cơ quan Hải quan chủ động kiểm tra, giám sát hải quan trên nền tảng phương pháp, kỹ thuật QLRR đối với đối tượng trọng điểm và tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại.

Công tác QLRR ngày càng phát triển và hoàn thiện, đảm bảo xử lý, phân luồng thuông suốt, đáp ứng yêu cầu tự động hóa, điện tử hóa thủ tục hải quan, hài hòa giữa tạo thuận lợi thương mại và kiểm soát. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế như còn thiếu cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác quản lý, đánh giá tuân thủ và chính sách khuyến khích tuân thủ đối với doanh nghiệp XNK; văn bản chính sách quản lý chuyên ngành có phạm vị áp dụng quá rộng chưa theo nguyên tắc áp dụng QLRR…

Quang Hùng

Nguồn Hải Quan: http://www.baohaiquan.vn/pages/giam-thoi-gian-thong-quan-nho-quan-ly-rui-ro.aspx