Giáo dục: Cần một không gian chính sách khuyến khích sáng tạo

Một chương trình - một (hay nhiều) bộ sách giáo khoa? Vì sao sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục (CNGD) và chương trình dạy học thực nghiệm của GS. Hồ Ngọc Đại được 'thí điểm' 40 năm qua mà vẫn bị coi là 'triển khai chui'? Đó chỉ là hai trong nhiều vấn đề của thực trạng giáo dục đang gây tranh luận, lẫn e ngại trong xã hội. TS. Phạm Thị Ly (Đại học Quốc gia TP.HCM) - thành viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực - chia sẻ với Người Đô Thị về quan điểm xây dựng một không gian chính sách nhằm phát huy sức sáng tạo, cả trong phương pháp dạy và học, từ đó lọc ra những cải cách tối ưu cho nền giáo dục nước nhà.

Chưa bàn đến tính khoa học hay hiệu quả của CNGD nói chung, sách Tiếng Việt 1 CNGD nói riêng, nhưng từ hiện trạng này, xin bà cho nhận xét ở khía cạnh chính sách giáo dục: Vì sao ta lại duy trì trạng thái “thực nghiệm” (đối với CNGD) và trạng thái ‘thí điểm” (đối với sách Tiếng Việt 1 CNGD) lâu như vậy? Thực tế này phản ánh điều gì?

Thực tế này cho thấy rõ sự bất cập của chính sách đối với những thử nghiệm về giáo dục.

Đòi hỏi của công chúng về việc các chương trình thực nghiệm giáo dục cần được nghiên cứu, tiến hành một cách thận trọng, bài bản, và đánh giá kết quả một cách độc lập, khách quan, dựa trên những phương pháp đáng tin cậy, là một đòi hỏi chính đáng. Tuy nhiên, đòi hỏi đó cho đến nay hầu như là bất khả thi trong thực tế Việt Nam. Lý do vì chúng ta không có bất cứ một bộ khung pháp lý nào cho phép thực thi điều này. Chương trình thực nghiệm CNGD của GS. Hồ Ngọc Đại bị coi là “làm chui”, “trái luật” chính vì không có khuôn khổ pháp lý nào để thực hiện việc này cả. Cho đến nay, chúng ta vẫn thực thi luật pháp trên tinh thần “chỉ được làm những gì luật cho phép” chứ không phải “được làm tất cả những gì luật không cấm”.

Nhiều người nói rằng GS. Hồ Ngọc Đại nếu không phải là con rể của cố Tổng bí thư Lê Duẩn thì không bao giờ có thể thực hiện được chương trình thực nghiệm CNGD. Tôi thì nghĩ, đến như con rể Tổng bí thư mà cũng chỉ có thể “thực nghiệm”, lại “thực nghiệm” những bốn mươi năm vẫn chưa được chính thức tổng kết, đánh giá và thừa nhận.

Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là những hệ quả của sự bất cập này về mặt chính sách. Chúng ta cần nhìn rộng hơn bức tranh giáo dục và chương trình thực nghiệm CNGD để thấy cách làm “thí điểm” này vốn có gốc rễ trong tinh thần “dò đá qua sông” mà người Trung Quốc đã vận dụng trong quá trình cải cách kinh tế và đạt được những thành công đáng kể. Bản thân câu thành ngữ “dò đá qua sông” đã nói lên đầy đủ bản chất của cách tư duy và cách làm này: thay đổi từng bước một cách thận trọng, và xem xét kết quả thực tế để tiếp tục điều chỉnh cho các bước tiếp theo. Nó phù hợp với văn hóa Á Đông vốn không thích ứng tốt với những thay đổi có tính chất nhảy vọt, đột biến.

Nó phản ánh sự thận trọng, và phần nào là dựa trên kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân hơn là dựa trên những chứng cứ khoa học.

TS. Phạm Thị Ly, thành viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực. Ảnh CTV

Cách làm đó không hẳn dở. Chúng ta chắc còn nhớ “khoán chui” mà Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc thực hiện đã dẫn đến chính sách Khoán 10 và làm cho nước ta từ chỗ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thế giới. Khoán chui trước khi được thừa nhận chính thức đã là một thử nghiệm “trái pháp luật” vì lúc đó không có bất cứ hành lang pháp lý nào cho phép ông Kim Ngọc làm thế. Hơn nữa, nó còn trái với tinh thần của chủ nghĩa tập thể bấy giờ đang được đề cao như một phần quan trọng của ý thức hệ chính thống.

Chúng ta cũng phải nhìn nhận: lẽ ra Nhà nước không nên để những thử nghiệm như thế diễn ra trong tình trạng “trái pháp luật”. Trước hết, vì nó quá rủi ro cho những người thực hiện. Họ có thể đi tù, sạt nghiệp, mất hết mọi cơ hội thăng tiến. Nhưng quan trọng hơn, tấm gương của họ sẽ làm nản lòng tất cả những ai mong muốn cải thiện hiện trạng, tìm kiếm những sáng kiến đổi mới. Một xã hội không có những người khao khát đổi mới và tìm kiếm cái mới sẽ là một xã hội tù đọng, nói gì tới năng lực cạnh tranh với thế giới bên ngoài?

Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho sự tùy tiện và không tôn trọng pháp luật. Nó đặt ngang hàng những sáng kiến đổi mới với hành vi phản lại chuẩn mực và có hại cho xã hội, vì cả hai đều bị dán nhãn “trái pháp luật”. Nó tạo ra tình trạng loạn chuẩn mực trong xã hội: pháp luật không còn là thước đo chung để người ta hiểu đâu là những việc không nên làm.

Trở lại vấn đề giáo dục, làn sóng phê phán CNGD kịch liệt vừa qua, như đã có người nhận định, thể hiện sự thất vọng sâu sắc; đối với một số người là tuyệt vọng, đối với nền giáo dục trong nước. Những phản ứng giận dữ một cách cảm tính, cực đoan đó là kết quả của nhiều lần thất vọng trước những thay đổi do Bộ Giáo dục - Đào tạo đề xướng mà kết quả không như mọi người mong đợi. Điều này có thể thấy rõ nhất trong những thay đổi về thi cử, đặc biệt là tuyển sinh vào đại học. Có thể nói mà không sợ quá lời rằng Bộ đã thực hiện những thay đổi đó mà thiếu hẳn quá trình nghiên cứu nghiêm túc, thiếu thử nghiệm và đánh giá, rút kinh nghiệm trong phạm vi nhỏ trước khi cho áp dụng cả nước, cho nên nhiều thứ bất cập lộ ra ngay khi vừa thực hiện, là những thứ lẽ ra đã có thể tránh.

Dù gì thì CNGD cũng đã được triển khai vào đời sống, và đây là một trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, xét rộng ra, trong khi chính sách giáo dục hiện nay luôn nêu cao định hướng sáng tạo cho học sinh, thì liệu có sự hạn chế những sáng kiến giáo dục từ các nhà chuyên môn hay không? Có cần thiết phải định ra một hành lang pháp lý cho những thử nghiệm giáo dục, vốn luôn luôn là đòi hỏi từ cuộc sống? Để điều này trở thành hiện thực thì cần bỏ đi hoặc thêm mới những chính sách, quy định gì?

Như đã nói, dù chính sách có hay đến mấy thì cũng sẽ có một lúc nào đó nó trở thành lạc hậu so với thực tế. Vì thế, chính sách không thể nhất thành bất biến, nó cần được thay đổi để phù hợp với diễn biến của thế giới bên ngoài. Quá trình điều chỉnh chính sách cần được thực hiện từng bước, dựa trên thử nghiệm (làm khác đi so với cái đang được luật pháp quy định), và đánh giá kết quả, tác động, ý nghĩa của nó trước khi sửa lại chính sách hiện hành và cho áp dụng đại trà. Những thử nghiệm đó phải trở thành một phần tất yếu của quá trình phát triển chính sách, đặc biệt là đối với giáo dục, vì không lĩnh vực nào mà mỗi thay đổi lại ảnh hưởng lâu dài và đến nhiều người, có thể nói là đến mọi gia đình, như giáo dục.

Trong bối cảnh thiếu lòng tin hiện nay, Bộ rất cần xây dựng sự đồng thuận của phụ huynh học sinh, và hỗ trợ giáo viên trên con đường thay đổi. Những bức xúc của phụ huynh về chất lượng giáo dục không thể giải quyết bằng những thay đổi chắp vá, nó cần được giải quyết bằng những thay đổi có tính chất hệ thống, bằng sự kiên trì thuyết phục, và nhất là bằng những kết quả thực tế.

Những năm gần đây, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tỏ ra cầu thị, đáp ứng với dư luận nhiều hơn. Đó là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, việc lắng nghe ý kiến phản ứng của dư luận cần phải kết hợp với dựa trên kết quả phân tích khách quan của giới chuyên gia có trình độ chuyên môn và có khả năng suy nghĩ độc lập, thay vì chỉ dựa trên những làn sóng chỉ trích thiếu căn cứ của đám đông. Một ví dụ cho điều này là cách ứng xử với Thông tư 30 (không chấm điểm học sinh tiểu học, chỉ nhận xét kết quả học tập).

Thông tư này dựa trên một quan điểm đúng đắn và phù hợp với các quan điểm giáo dục hiện đại. Rất tiếc là nhiều người quen với cách dạy và học truyền thống, ngại thay đổi đã không chấp nhận quan điểm này, cho rằng nếu không chấm điểm thì học sinh không chịu học, và nhận xét từng em như thế mất rất nhiều thì giờ cho giáo viên v.v.. Trước những phản ứng tiêu cực của giáo viên và phụ huynh, Bộ đã rút lại yêu cầu này...

Một vấn đề khác cũng xuất phát từ quan niệm “đóng”: câu chuyện sách giáo khoa. Mặc dù Quốc hội đã thông qua nghị quyết (2014) về việc cho phép thực hiện “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa”, tuy nhiên khi thảo luận về Luật Giáo dục sửa đổi gần đây, lại có một số ý kiến của Đại biểu Quốc hội muốn quay về chỉ áp dụng một bộ sách giáo khoa chung. Quan điểm của bà về việc này như thế nào? Đâu là ưu điểm và nhược điểm của cả hai phương án?

Một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa là chuyện bình thường trên thế giới, nhưng còn mới mẻ ở Việt Nam. Kể từ năm 1975 đến nay, đây là lần đầu tiên chúng ta thực hiện một chủ trương như vậy. Chắc chắn sẽ có khó khăn bước đầu, vì chúng ta chưa có lực lượng chuyên gia để viết sách giáo khoa. Một nhà khoa học giỏi nghiên cứu, kiến thức uyên thâm không chắc có thể viết một bộ sách giáo khoa tốt, bởi sách giáo khoa không phải chỉ bao gồm kiến thức, cũng như căn nhà không phải chỉ gồm những viên gạch.

Sách giáo khoa là một kịch bản giáo dục có hệ thống, nó liên quan tới tri thức chuyên môn, hiểu biết về tâm lý lứa tuổi, hiểu biết về phương pháp sư phạm và bối cảnh thực tế. Một thầy/cô giáo dày dạn kinh nghiệm nhiều năm cũng không chắc là người soạn sách giáo khoa tốt, vì người soạn sách giáo khoa phải hiểu biết rộng và biết rất chắc về kiến thức chuyên ngành/liên ngành, phải cập nhật xu hướng của thế giới, biết phải chọn vật liệu gì trong hàng ngàn vật liệu và sắp xếp những vật liệu ấy như thế nào, phối hợp với các môn khác, cấp lớp khác ra sao, để nhất quán với một nền tảng triết lý giáo dục nhất định và đáp ứng mục tiêu của chương trình.

Chúng ta hiện có rất ít người đủ kỹ năng để làm tốt sách giáo khoa như vậy. Vì thế, trăm hoa đua nở trong việc biên soạn giáo khoa rất có thể sẽ có vấp váp và lúng túng ban đầu. Đó là chưa nói đến những vấn đề còn phức tạp hơn nhiều như làm thế nào để việc thẩm định thực sự độc lập, khách quan, làm thế nào để đảm bảo quyền lựa chọn sách giáo khoa của nhà trường, thậm chí là của giáo viên, để họ không bị các nhóm lợi ích tìm cách chi phối. Một bộ sách giáo khoa duy nhất do Bộ Giáo dục - Đào tạo tổ chức biên soạn sẽ có thể tránh được một số khó khăn trong những khó khăn nói trên. Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là những bất cập trong biên soạn bộ sách duy nhất này lại không lặp lại như trường hợp sách giáo khoa năm 2000.

Vì thế, chủ trương cho phép thực hiện một chương trình, nhiều sách giáo khoa là bước tiến lớn về mặt tư duy cần được bảo vệ. Điều quan trọng không phải chỉ là có nhiều nhóm biên soạn sách giáo khoa thì có cạnh tranh và có sách tốt/rẻ hơn, mà là nó có nghĩa Nhà nước chấp nhận có những cách tiếp cận khác nhau trong nội dung và phương pháp giáo dục để đạt tới mục tiêu chung mà chương trình đã nêu ra. Đa dạng về con đường, cách thức thực hiện là một khởi đầu quan trọng cho việc cải thiện chất lượng giáo dục.

Ảnh: TL

Cuộc tranh cãi gay gắt về CNGD vừa qua còn cho ta thấy một điều khác: thị trường hóa hoàn toàn đối với sách giáo khoa có thể tạo ra cạnh tranh không lành mạnh và điều này không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, cũng không phải là điều chúng ta mong muốn. Nó rất có thể xảy ra, nhưng cũng có thể tránh được hoặc làm giảm nhẹ tác hại. Thay cho miễn học phí bậc trung học cơ sở, nếu Nhà nước bao cấp toàn bộ sách giáo khoa cho học sinh phổ thông, thì ngân sách vẫn chỉ tiêu chừng đó, mà học sinh không phải mua sách giá đắt, động lực cạnh tranh không lành mạnh cũng giảm.

Chúng ta không nên quên ở các nước tư bản chính thống, kể cả các nước coi giáo dục là một thị trường, giáo dục phổ thông vẫn là miễn phí và chủ yếu được nhà nước bao cấp. Lý do là giáo dục phổ thông có ý nghĩa sống còn với chất lượng nguồn nhân lực và với sự ổn định xã hội.

Từ hai câu chuyện nói trên, cùng với những hạn chế bất cập của giáo dục phổ thông (chương trình, việc thi cử...), theo bà, những điều cốt lõi nào về thể chế giáo dục cần phải đề xuất để phát huy năng lượng sáng tạo của xã hội, đảm bảo được tính khoa học, hiệu quả của chương trình giáo dục cũng như việc quản lý nhà nước?

Những tranh cãi gay gắt vừa qua tuy có bộc lộ những chỗ xấu xí và yếu kém về kỹ năng hay thái độ tranh luận của một số người, nhưng nó có cái hay là xã hội có cơ hội để nghe được tiếng nói nhiều chiều. Vấn đề là Bộ Giáo dục - Đào tạo, cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về chính sách giáo dục không thể làm chính sách theo kiểu cảm tính hay “đẽo cày giữa đường”. Mở ra cho xã hội góp ý kiến rộng rãi là một điều tốt, nhưng Bộ cần có một đội ngũ chuyên gia thực sự mạnh, đội ngũ đó không chỉ nghiên cứu và tư vấn giúp Bộ, mà còn làm công tác truyền thông chính sách. Truyền thông chính sách không phải là dùng những kỹ xảo để điều khiển cảm xúc của đám đông, mà là thuyết phục công chúng bằng những bằng chứng đáng tin cậy và lý lẽ nghiêm túc.

Trong bối cảnh thiếu lòng tin hiện nay, Bộ rất cần xây dựng sự đồng thuận của phụ huynh học sinh, và hỗ trợ giáo viên trên con đường thay đổi. Những bức xúc của phụ huynh về chất lượng giáo dục không thể giải quyết bằng những thay đổi chắp vá, nó cần được giải quyết bằng những thay đổi có tính chất hệ thống, bằng sự kiên trì thuyết phục, và nhất là bằng những kết quả thực tế.

Để làm được điều này chúng ta cần tạo ra những khoảng không gian xã hội cho sự sáng tạo, chấp nhận những cách tiếp cận đa dạng, những con đường và phương pháp khác nhau để đạt được mục tiêu, và làm chính sách dựa trên thực chứng.

Duy Thông thực hiện

Nguồn Người Đô Thị: http://nguoidothi.net.vn/giao-duc-can-mot-khong-gian-chinh-sach-khuyen-khich-sang-tao-15616.html