'Giáo dục đại học Việt Nam có thể thuộc nhóm 80/196 của thế giới'

Theo tiếp cận xếp hạng hệ thống (bảng xếp hạng U21 của Hiệp hội các trường đại học Universitas 21 và QS), giáo dục đại học Việt Nam chưa lọt top 50 thế giới. Chúng ta vẫn chưa có trường đại học thuộc top 500. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của 2 đại học quốc gia vào top 1.000, có thể đánh giá hệ thống đại học của Việt Nam thuộc vào nhóm 80/196 của thế giới.

Thông tin này được nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội, đưa ra tại hội thảo về "chuẩn hóa và hội nhập quốc tế" do Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức ngày 17/8.

Trước đó, ông Dilip Parajuli (WB Việt Nam) giới thiệu một "chỉ số xếp hạng" khác về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Đó là thứ hạng 84/137 theo một chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2017-2018.

GS Nguyễn Hữu Đức báo cáo tại hội thảo. Ảnh: Nguyễn Thảo

Theo nhóm nghiên cứu, năm 2018, trên bình diện thế giới, Việt Nam đã có 2 đại học quốc gia lọt vào "top 1.000". Trong khu vực châu Á, Việt Nam có tên 5 cơ sở giáo dục đại học: ĐHQG Hà Nội (139), ĐHQG TP.HCM(142), Trường ĐH Bách khoa Hà Nội (291-300), Trường ĐH Cần Thơ (301-350) và ĐH Huế (351-400).

Còn nếu so sánh ĐHQG Hà Nội với các trường trong "top 400 châu Á", kết quả mới chỉ nhích qua mức trung bình một ít, khoảng 5%.

Phân tích chi tiết kết quả xếp hạng của từng tiêu chí, có thể thấy rằng ĐHQG Hà Nội nói riêng và các trường đại học Việt Nam nói chung đang nằm ở bẫy năng suất nghiên cứu và mức độ quốc tế hóa.

Tỷ lệ mức độ uy tín học thuật và uy tín đối với các nhà tuyển dụng của các đại học Việt Nam thấp hơn các trường đã nêu rất nhiều. Tựu chung lại, kết quả xếp hạng của các đại học Việt Nam rất thấp.Khi so sánh với kết quả xếp hạng của các trường đại học top đầu trong khu vực ASEAN, chất lượng các công trình công bố (đánh giá qua số lượng trích dẫn) của ĐHQG Hà Nội và ĐHQG TP.HCM "về cơ bản so sánh được với các trường tốp đầu của các quốc gia trong khu vực, nhưng năng suất nghiên cứu của ta thấp hơn".

2 trường đại học top đầu của các nước Philippine (Đại học Philippine, Đại học De la Salle), Indonesia (Đại học Indonesia, Viện nghiên cứu khoa học và công nghệ Bandung), Thailand (Đại học Chulalongkorn, Đại học Mahidol) và Malaysia (Đại học Malaysia, Đại học Putra Malaysia)

Ngoài các nguyên nhân về bẫy mức độ nghiên cứu và quốc tế hóa, tỷ lệ về mức độ uy tín học thuật và uy tín đối với các nhà tuyển dụng thấp còn phản ánh mối quan hệ giữa hệ thống giáo dục đại học và các bên liên quan, về mô hình và cơ chế vận hành của các trường đại học Việt Nam, trong đó cơ chế thị trường và mục tiêu đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan chưa được quan tâm đúng mức.

Báo cáo của chuyên gia đến từ Ngân hàng Thế giới

Nhóm nghiên cứu cho rằng để giải quyết những vấn đề này cần có các năng lực: thích ứng với xu thế chuyển đổi của giáo dục đại học thế giới, tổ chức đào tạo theo định hướng khởi nghiệp, nghiên cứu hàn lâm định hướng đổi mới sáng tạo, xây dựng đại học số hóa, thực hiện chức năng thứ ba của giáo dục đại học.

Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Phúc cũng đưa ra một vài số liệu đáng chú ý. Năm học 2016-2017, số lượng công bố ISI của top 20 trường đại học của Việt Nam là 2.590 bài; tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Tuy nhiên, số công bố quốc tế của ta vẫn còn rất thấp so với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á.

Trong tham luận của mình, GS. Nguyễn Hữu Đức kết luận: Để sự phát triển giáo dục đại học có tính bền vững, cần xây dựng chiến lược theo hướng chuẩn hóa, xác định chỉ tiêu phát triển theo hướng hội nhập và được đánh giá, đối sánh với các quốc gia trên thế giới.

Theo Vietnamnet

Nguồn TGTT: http://thegioitiepthi.vn/p/giao-duc-dai-hoc-viet-nam-co-the-thuoc-nhom-80-196-cua-the-gioi-10439.html