Giáo sư Nhật nhận giải Nobel qua lời kể của học trò Việt Nam đầu tiên

GS.BS Tạ Thành Văn là người đầu tiên trong số 4 học trò Việt được giáo sư Tasuku Honjo (Nhật Bản) dẫn dắt. Với anh, 3 năm làm việc cùng người thầy này vừa vinh quang vừa khổ cực.

L

iệu pháp điều trị ung thư bằng cách ức chế chốt kiểm miễn dịch (liệu pháp miễn dịch) - cơ hội kéo dài sự sống cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối - đã được trao giải Nobel Y học và Sinh lý học 2018. Đây là thành quả nghiên cứu của hai nhà khoa học James P.Allison (Mỹ) và Tasuku Honjo (Nhật Bản). Từ kết quả này, ngành dược liệu đã sản xuất ra các loại thuốc miễn dịch để đưa vào sử dụng trong điều trị ung thư.

Tại Việt Nam, GS.BS Tạ Thành Văn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Gen-Protein, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội, chính là học trò Việt đầu tiên của giáo sư Tasuku Honjo (sinh năm 1942, Đại học Kyoto, Nhật Bản) đã có một hướng đi khác trong việc trị liệu miễn dịch ung thư - đang được thử nghiệm ở nước ta.

GS Tạ Thành Văn đã dành cho Zing.vn cuộc nói chuyện với nhiều thông tin thú vị về người thầy nổi tiếng của mình cũng như công trình nghiên cứu của ông và đồng nghiệp - một đột phá mới trong việc điều trị ung thư.

GS Tasuku Honjo và người học trò Việt Nam đầu tiên - GS Tạ Thành Văn. Ảnh: NVCC.

GS Tasuku Honjo và người học trò Việt Nam đầu tiên - GS Tạ Thành Văn. Ảnh: NVCC.

- Tôi được biết anh chính là học trò Việt Nam đầu tiên của giáo sư Tasuku Honjo - người vừa đạt giải Nobel Y học và Sinh lý 2018 cho liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư. Cơ duyên nào đã giúp anh có cơ hội được làm việc với vị giáo sư nổi tiếng này?

- Thực ra, tôi được biết tới thầy Honjo từ trước năm 2000 khi đang là thực tập sinh sau tiến sĩ ở Mỹ. Thời điểm đó, tôi thường xuyên cập nhật và đọc các công trình nghiên cứu trên các tạp chí y học thế giới, nên được biết về những phát minh đặc biệt quan trọng của thầy trong ngành miễn dịch học phân tử. Sau đó, tôi đã viết thư bày tỏ mong muốn được làm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của thầy. Sau khi hai thầy trò trao đuổi, thầy đã đồng ý nhận tôi. Sau khi hoàn thành khóa thực tập sau tiến sĩ ở Mỹ, tôi đã trở lại Nhật để làm việc trong phòng thí nghiệm của GS Tasuku Honjo.

- Anh đã theo học giáo sư Honjo trong thời gian bao lâu? Trong thời gian đó, chắc hẳn anh có nhiều kỷ niệm đáng nhớ về người thầy của mình?

- Tôi đã làm việc trong phòng thí nghiệm của thầy trong gần 3 năm, từ tháng 4/2001 đến tháng 10/2003, sau đó trở về nước. Điều rất thú vị rằng trước khi sang Nhật để gặp thầy Honjo, có một lần tôi tham gia một hội nghị y khoa ở Mỹ, trong đó, tôi đặc biệt chú ý tới gian treo các công trình nghiên cứu của Nhật. Tại đó, tôi đã gặp một số giáo sư Nhật đến từ Đại học Kyoto. Khi tôi chia sẻ chuẩn bị sang Nhật làm học trò của thầy Honjo, họ đã rất ngạc nhiên và hỏi tôi rằng: “ Bạn đã suy nghĩ kỹ chưa?”. Lúc đó, tôi chưa thực sự hiểu hàm ý câu hỏi đó của các đồng nghiệp thầy Honjo.

- Điều đó có nghĩa 3 năm làm việc của anh ở phòng thí nghiệm của GS. Honjo là vô cùng khó khăn?

- Đó là thời kỳ vinh quang khi bản thân tôi vì đã có đóng góp vào những công trình lớn với tên của mình, nhưng cũng là quãng thời gian gian nan, khổ cực. Thời điểm đó, phòng thí nghiệm của thầy Honjo có tới hơn 30 nghiên cứu sinh và nghiên cứu viên sau tiến sĩ. Tất cả chúng tôi có chung một áp lực lớn, làm việc bất kể ngày đêm. Phòng thí nghiệm chưa bao giờ tắt đèn bởi lúc nào cũng có người làm việc. Thế nhưng, bạn biết đấy, làm khoa học thì trên 90% là thất bại kể cả khi có tư duy và logic đúng đắn. Thành công thì đôi khi đến thật bất ngờ. Có những thời điểm kết quả không như mong đợi, tôi đi lang thang ven sông tới 1-2h sáng với một nỗi buồn khủng khiếp vì áp lực, sự thất bại, danh dự cá nhân.- Có vẻ thầy Honjo là một người khó tính khi để học trò của mình áp lực như vậy?

- Ngược lại, thầy là một người vô cùng nhẹ nhàng, ít khi cáu gắt với học trò. Những áp lực xuất phát từ chính bản thân học trò và các nghiên cứu viên do phải chạy đua với thời gian về kết quả nghiên cứu. Mỗi thành viên bắt buộc phải báo cáo mỗi tuần/1 lần những ai đang làm vấn đề khoa học nóng có thể phải báo cáo kết quả vài lần trong tuần. Chính điều đó đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành viên trong phòng thí nghiệm của giáo sư.

- Anh có phải là một học trò đặc biệt của thầy?

- Tôi chỉ là một người may mắn khi được trở thành học trò của thầy Honjo. Trong thời gian gần 3 năm, tôi theo đổi một đề tài nghiên cứu về cơ chế hoạt động của gen mã hóa enzym tham gia quá trình điều hòa tổng hợp và chuyển dạng kháng thể ở người. Đó là AID (Activation-Induced Cytidine Deaminase) có ứng dụng quan trọng trong bệnh lý ung thư, suy giảm miễn dịch và bệnh tự miễn. Công trình này đã được công bố năm 2003 trên tạp chí quốc tế nổi tiếng Nature Imunology và được giới khoa học đánh giá rất cao. Đến bây giờ tôi vẫn thường xuyên giữ liên lạc với thầy.

Mỗi dịp sang Nhật công tác tôi vẫn dành thời gian đến thăm thầy, những cuộc gặp ngắn ngủi nhưng tôi luôn được chia sẻ rất nhiều điều với thầy. Mỗi năm thầy vẫn giữ thói quen gửi thiếp chúc mừng năm mới tới chúng tôi với nhưng thông tin ngắn gọn về những thành tựu khoa học ấn tượng mà phòng nghiên cứu của thầy đạt được trong năm qua. Thầy cũng không quên thông báo cho học trò về sự biến động trong công việc cũng như cuộc sống riêng của thầy.

Tết 2018 vừa rồi, trong thư thầy rất vui mừng khi thông báo về kết quả ứng dụng kháng thể kháng PD1 đã được thử nghiệm thành công trên nhiều loại ung thư tạng đặc và được FDA của Mỹ thông qua. Đồng thời, thầy cũng thông báo tỷ số chơi golf vẫn được giữ vững và hy vọng sẽ ổn định trong 2018.

- Với công trình nghiên cứu thành công như vậy, hẳn anh có nhiều lựa chọn. Nhưng anh đã chọn trở về Việt Nam. Thầy Honjo có ủng hộ quyết định ấy?

- Đúng vậy, thường khi có công trình nghiên cứu thành công, được đăng trên tạp chí quốc tế nổi tiếng sẽ có rất nhiều cơ hội lớn về việc làm. Vì lời hứa với những người thầy của tôi ở trong nước trước lúc đi (PGS Tôn Thất Bách, nguyên Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội và PGS Nguyễn Thị Hà, nguyên Phó hiệu trưởng) mà tôi quyết định trở về.

Thầy cho tôi lời khuyên rằng khi về nước, cần chịu khó tham gia các hội nghị khoa học với 2 mục đích. Thứ nhất, để cho các nhà khoa học Việt Nam biết mình đã làm được những gì, có thể làm gì. Thứ 2, thông qua các báo cáo của đồng nghiệp để hiểu nhu cầu khoa học ở trong nước cần gì để từ đó xác định hướng nghiên cứu cho cá nhân mình. Thầy hết sức ủng hộ khi tôi về nước để tiếp tục làm việc và hứa sẽ hỗ trợ nếu tôi muốn có nhóm nghiên cứu của riêng mình ở Việt Nam. Do đó, sau khi về nước, tôi đã cử một đồng nghiệp sang để thầy đào tạo và hiện đồng nghiệp đó đã trở thành một trong những nhà khoa học trẻ danh tiếng của Đại học Y Hà Nội.

- Sau nhiều năm gắn bó, điều anh ấn tượng nhất về người thầy của mình là gì?

- Tôi và các bạn vẫn gọi thầy là “Siêu nhân”. Hồi đó, thầy vừa làm nghiên cứu, vừa là Trưởng khoa Y của Đại học Kyoto, tương đương hiệu trưởng Đại học Y ở Việt Nam. Tuy bận bịu với công việc nhưng thầy nhớ chính xác công việc từng con người và tiến độ đến đâu. Nhiều khi tôi đang làm việc trên máy tính, thầy bước vào rất nhẹ nhàng vỗ vai hỏi kết quả. Thầy nắm rất rõ những gì các học trò của mình đang làm. Hay như việc dù thầy là người Nhật, nhưng mỗi khi viết sách, báo bằng tiếng Anh, thầy chỉ nói trước máy ghi âm như đọc vậy rồi các thư ký nghe và đánh máy lại. Thầy là người có trí tuệ rất siêu phàm nhưng gần gũi và nhẹ nhàng.

- Khi thầy Honjo đạt giải Nobel mới đây, anh đã chúc mừng thầy như thế nào?

- Thực ra, việc thầy Honjo đạt giải Nobel không bất ngờ đối với các học trò như tôi và cộng đồng khoa học Nhật Bản. Nhiều năm trước, giới khoa học đã nhận định chắc chắn thầy sẽ đạt giải Nobel. Năm nào, chúng tôi cũng mong chờ tên thầy được xướng lên mỗi khi đến dịp giải Nobel được quyết định. Nhưng chúng tôi đã phải đợi mãi tới năm nay điều đó mới xảy ra. Giải Nobel của thầy Honjo là giải Nobel thứ 27 của Nhật. Tôi đã gửi thư chúc mừng thầy và hứa sẽ sang chung vui nếu thầy tổ chức liên hoan mừng sự kiện.

Học trò giáo sư nhận giải Nobel Y học: Thầy là siêu nhân Giáo sư Tạ Thành Văn cho biết giáo sư Honjo có thể viết sách, báo bằng cách nói tiếng Anh, ghi âm lại rồi cho thư ký đánh máy.

- Anh có thể giới thiệu ngắn gọn về công trình nghiên cứu mới được giải Nobel?

- Đây là giải thưởng dành cho liệu pháp miễn dịch trong ung thư. Liệu pháp này chia thành 2 hướng: Kích hoạt các hệ thống tế bào có thẩm quyền miễn dịch hoạt động mạnh hơn ngay tại khối u để tiêu diệt chính xác tế bào ung thư, lấy tế bào miễn dịch của bệnh nhân ung thư ra ngoài cơ thể sau đó nhân lên, biệt hóa trong những điều kiện đặc biệt trước khi chúng được đưa trở lại cơ thể để tiêu diệt tế bào ung thư. Hai hướng này có chung cơ sở khoa học là tăng cường chức năng của các tế bào có thẩm quyền miễn dịch nhưng hướng tiếp cận khác nhau. Trong đó, giải thưởng của thầy Honjo dành cho hướng thứ nhất. Còn hướng thứ hai, chúng tôi đang thực hiện.

- Anh có thể nói cụ thể về liệu pháp mà mình và các cộng sự đang thực hiện?

- Ý tưởng của chúng tôi có từ năm 2013, sau đó, qua một thời gian khá dài hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cơ sở vật chất. Cuối năm 2017, Bộ Y tế mới chính thức đồng ý thử nghiệm lâm sàng trên người Việt Nam tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện K. Tới nay, chúng tôi đã điều trị được gần 20 bệnh nhân.

- Liệu pháp này có thể điều trị những bệnh ung thư nào?

- Chỉ trừ ung thư máu, liệu pháp trên có thể được dùng điều trị cho những bệnh nhân bị ung thư mô đặc, gồm các bệnh như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư phổi, dạ dày, đại trực tràng...

- Vậy quy trình điều trị của liệu pháp này?

- Bệnh nhân được lấy khoảng 10-30 ml máu ngoại vi để phân lập các tế bào miễn dịch, nuôi cấy và hoạt hóa các chức năng chuyên biệt của các tế bào này trong môi trường đặc biệt.

Từ 10-30 ml máu ngoại vi, các nhà khoa học sẽ tách được vài triệu tế bào miễn dịch, sau đó nhân lên, biệt hóa được vài tỉ tế bào rồi truyền lại cho bệnh nhân, tạo ra hàng rào tế bào miễn dịch đủ mạnh, đặc hiệu để tiêu diệt các tế bào ung thư. Một liệu trình điều trị gồm 3 tháng, 6 lần truyền, mỗi lần cách nhau 2 tuần.

Các tế bào miễn dịch chuyên biệt này sẽ giúp cơ thể người bệnh tăng cường sức đề kháng, tiêu diệt các tế bào ung thư trong cơ thể mình. Nói nôm na là tế bào miễn dịch trong cơ thể chưa biệt hóa như một “đội tân binh”. Chúng tôi sẽ mang tế bào trên ra ngoài “huấn luyện”, đào tạo thành “chiến sĩ đặc nhiệm” rồi đưa vào cơ thể để tiêu diệt tế bào ung thư.

- Khi nào liệu pháp này được áp dụng điều trị chính thức ở Việt Nam, hiện tại kết quả của liệu pháp trên như thế nào trong thử nghiệm lâm sàng, thưa giáo sư?

- Dự kiến nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sẽ được tiến hành trong 3 năm. Sau đó, chúng tôi sẽ tổng kết, thông qua hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đánh giá để kết luận xem liệu pháp này có được áp dụng rộng rãi hay không.

Đây là một liệu pháp hỗ trợ điều trị ung thư, thông thường, liệu pháp này áp dụng cho bệnh nhân từ giai đoạn 3 trở đi. Liệu pháp này có thể được tiến hành kết hợp với các phương pháp điều trị truyền thống khác như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, điều trị đích để tăng cường hơn nữa hiệu quả diệt tế bào ung thư.

Kết quả ban đầu cho thấy triệu chứng lâm sàng bệnh nhân được cải thiện khá tốt làm tăng chất lượng cuộc sống của người bệnh. Vì liệu pháp điều trị theo y học cá thể nên có những bệnh nhân đáp ứng rất tốt, song có những bệnh nhân đáp ứng kém hơn.

Còn tại cơ sở chuyên giao công nghệ cho chúng tôi ở Nhật Bản với hơn 10.000 lượt điều trị bằng phương pháp này cho thấy tỷ lệ đáp ứng và cải thiện là 55-60%, tức bệnh nhân ăn được, ngủ được, đi lại được và không đau. Tỷ lệ khối u nhỏ đi hoặc biến mất là 3%. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ nhắm đến mục tiêu là làm cải thiện triệu chứng lâm sàng, tăng chất lượng cuộc sống đối với những bệnh nhân ung thư nặng, giai đoạn cuối. Hiện vẫn còn khoảng 40% đáp ứng chưa như mong muốn. Bởi lẽ điều này tùy thuộc vào đặc tính của từng cá thể riêng lẻ.

- Phương pháp này có ưu điểm gì và giá thành ra sao, thưa giáo sư?

- Đây là một trong những phương pháp hỗ trợ điều trị ung thư khá hiệu quả nhằm tăng cường khả năng tiêu diệt tế bào ung thư của hệ miễn dịch của bệnh nhân. Điều đặc biệt là cho đến nay liệu pháp này chưa phát hiện ra tác dụng phụ nào đáng kể vì điều trị tự thân.

Theo các đánh giá, giải pháp mang tính chất đột phá của ngành ung thư, miễn dịch. Đánh giá chủ quan lẫn khách quan cho thấy đây là phương pháp điều trị hỗ trợ bệnh nhân ung thư thông qua việc làm tăng cường “nội lực” của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân ở những giai đoạn sớm, chúng tôi vẫn khuyến cáo theo các phương pháp truyền thống, sau đó kết hợp với miễn dịch trị liệu, kết quả sẽ tăng lên rất nhiều.

Hà Quyên - Việt Hùng
Đồ họa: Châu Châu

Nguồn Znews: http://news.zing.vn/giao-su-nhat-nhan-giai-nobel-qua-loi-ke-cua-hoc-tro-viet-nam-dau-tien-post882438.html