Giữ đầu ra ổn định cho nông sản Tây Nguyên

Tây Nguyên đã trở thành vùng sản xuất một số sản phẩm nông sản chủ lực quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả. Tuy nhiên, trong điều kiện còn khá nhiều rào cản để nông sản xuất khẩu của Vùng Tây nguyên có mặt tại thị trường nước ngoài. Các địa phương trong vùng cần phải tăng cường công tác xúc tiến thương mại gắn liền với quy hoạch vùng trồng và nâng cao chất lượng hàng hóa.

Thu hoạch cà phê chất lượng cao ở Đắk Lắk. Ảnh: Sơn Nam

Nhiều rào cản

Báo cáo thống kê cho thấy, với hơn 5 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có 1,3 triệu ha đất đỏ bazan và có lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại cây trồng Tây Nguyên trở thành trọng điểm sản xuất các loại nông sản chủ lực của cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu của vùng Tây Nguyên năm 2022 đạt gần 3,8 tỷ USD và năm 2023 đạt trên 3,7 tỷ USD.

Một số mặt hàng xuất khẩu của Tây Nguyên đã góp mặt nhiều trên thị trường thế giới như sản phẩm cà phê, hồ tiêu, chanh dây, điều và mắc ca, cao su… cùng các loại dược liệu quý như, sâm Ngọc Linh, sâm dây, nấm linh chi đỏ, đinh lăng, hà thủ ô, đương quy, hoa hòe…

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nếu so với tiềm năng và lợi thế thì xuất khẩu nông sản của Tây Nguyên vẫn còn một số hạn chế và chưa xứng tầm và thiếu bền vững, nhất là những thời điểm được mùa mất giá và ngược lại. Cùng với đó là, quy mô sản xuất, chế biến nông sản còn nhỏ lẻ, các trung tâm chế biến sâu còn thiếu và yếu dẫn đến sản phẩm xuất khẩu hoặc nguyên liệu phục vụ xuất khẩu còn thô, đem lại giá trị không cao cho người dân, doanh nghiệp.

Hơn thế nữa, các sản phẩm nông sản chủ lực chất lượng không đồng đều, do đó còn vấp nhiều hàng rào thương mại mang tính kỹ thuật. Đặc biệt, liên kết nội vùng đang thể hiện nhiều điểm yếu, lỏng lẻo, thiếu đầu tư đồng bộ, dẫn tới thiếu các chuỗi cung ứng nội vùng.

Theo ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương thì Tây Nguyên gặp nhiều "điểm nghẽn" về cơ chế, chính sách, khoa học công nghệ, quy mô sản xuất, chế biến nông sản, nhân lực chất lượng cao, cơ sở vật chất và thiếu liên kết nội vùng để có thể phát huy hết tiềm năng, thế mạnh khi đưa hàng hóa ra thị trường thế giới.

Một trong những rào cản lớn hiện nay là quy định chứng nhận mã vùng trồng để chống phá rừng, chống biến đổi khí hậu khi tham gia thị trường châu Âu. Theo phân tích của Bộ Công thương, xuất khẩu cà phê của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thị trường châu Âu, chiếm khoảng 60% sản lượng cà phê của nước ta xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Nhưng nếu doanh nghiệp vi phạm Quy định Chống phá rừng và chống phát thải carbon thì bị phạt 4%/tổng doanh thu của công ty trong 1 năm.

Theo lộ trình, đến năm 2035 và 2050 thì không còn phát thải carbon, do vậy các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng tiêu chí này. Có nghĩa là phải sử dụng nguyên vật liệu, nhân công phải tuân thủ nghiêm, đây là một rào cản rất lớn vào thị trường châu Âu.

Xuất khẩu cà phê thô tại Tây Nguyên. Ảnh: Sơn Nam

Chiến lược, tiêu chuẩn mới liên quan đến thế mạnh của địa bàn Tây Nguyên đó là chiến lược từ trang trại tới bàn ăn, quy định các hệ thống thực phẩm công bằng lành mạnh và thân thiện môi trường, nghĩa là trong thời gian tới EU phấn đấu sẽ phải giảm 50% thuốc trừ sâu hóa học, 20% phân bón, 50% thuốc kháng sinh sử dụng trong các mặt hàng nông lâm thổ sản.

Ông Lê Thanh Sơn - Giám đốc Công ty Kinh doanh TNHH 1 thành viên xuất nhập khẩu 2/9 tỉnh Đắk Lắk cho biết, bình quân một năm đơn vị xuất khẩu 120.000 tấn cà phê, 10.000 tấn hồ tiêu, doanh thu đạt 275 triệu USD trong tổng doanh thu gần 7.000 tỷ đồng. Gần đây, để tiếp tục duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu khu vực châu Âu, công ty phải xây dựng và vừa được cấp Chứng chỉ Cà phê chống phá rừng - một quy định ngặt nghèo cho các doanh nghiệp, ngành xuất khẩu cà phê vào thị trường châu Âu.

Thúc đẩy tiềm năng phát triển

Theo các chuyên gia, để tạo ra bước chuyển mới có tính đột phá trong việc phát huy vị trí vai trò đặc biệt và khai thác hiệu quả hơn nữa tiềm năng lợi thế phát triển của vùng, cần phải có một giải pháp thúc đẩy khoa học công nghệ, liêt kết chuỗi trong sản xuất nâng cao giá trị sản phẩm; liên kết vùng trong các hoạt động xúc tiến thương mại và xuất nhập khẩu theo quy mô chuyên nghiệp. Đặc biệt là đầu tư khai thác có trọng tâm trọng điểm các khu kinh tế cửa khẩu mới thúc đẩy được giao thương hàng hóa khu vực Tây Nguyên ngày một mạnh lên.

Bên cạnh đó, các địa phương cần quan tâm tới kết cấu hạ tầng thương mại, kết cấu hạ tầng cho xúc tiến thương mại của cả vùng, cần có cơ chế để xây dựng và hình thành những công ty, tập đoàn chuyên doanh về thương mại đặc biệt để đảm bảo tiêu thụ được các sản phẩm của vùng. Các doanh nghiệp cần kịp thời cập nhật thông tin về thị trường nước ngoài để nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng tại từng thị trường, từ đó điều chỉnh sản phẩm phù hợp theo từng thị trường, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên trường quốc tế.

Ông Nguyễn Tuấn Hà - Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết, Đắk Lắk và các tỉnh trong khu vực cần đẩy mạnh tăng cường liên kết vùng; tích cực tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi phát triển hạ tầng công nghiệp, sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam, trong điều kiện phần lớn doanh nghiệp trong vùng Tây Nguyên là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực sản xuất và cạnh tranh còn yếu, công tác xúc tiến thương mại chưa thường xuyên, doanh nghiệp cũng chưa tận dụng tốt thế mạnh của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.

Do vậy, Bộ Công thương nên phối hợp với chính quyền tỉnh Tây Nguyên định kỳ hàng năm tổ chức các hội chợ lớn để xúc tiến thương mại. Đây sẽ là dịp để doanh nghiệp của vùng có cơ hội quảng bá với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, cũng là dịp để trao đổi thông tin với ý nghĩa mang thị trường đến tận tay doanh nghiệp trên địa bàn.

Về giải pháp lâu dài, các ý kiến chuyên gia cũng cho rằng, việc kết nối, xây dựng vùng nguyên liệu cho xuất khẩu tươi và chế biến sâu là vấn đề quan trọng số một cho ngành trồng trọt của Tây nguyên. Như vậy, việc đẩy mạnh đầu tư, hoàn thiện, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt trong liên thông vùng, kết nối liên quốc gia, cửa khẩu, cảng biển được cho là ưu tiên hàng đầu.

Đồng thời, cần tuyên truyền thành lập các hợp tác xã, trang trại lớn hoặc hội sản xuất rau quả liên vùng để hình thành vùng chuyên canh. Đưa các sản phẩm nông sản của Tây Nguyên, bao gồm rau quả cũng cần được đưa lên sàn thương mại điện tử nhằm kết nối với các vùng trong nước. Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc giúp cải thiện khả năng cạnh tranh và cung cấp sự đảm bảo cho khách hàng khi mua và tiêu thụ sản phẩm…

Phát triển kinh tế nông nghiệp quy mô lớn gắn với công nghệ cao

Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nêu rõ, vùng Tây Nguyên ưu tiên phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ, thân thiện môi trường gắn với lợi thế về nguồn nguyên liệu trong vùng.

Hình thành các khu, cụm công nghiệp chế biến sâu, cụm liên kết ngành gắn với các đô thị trung tâm và hành lang kinh tế; liên kết hiệu quả với công nghiệp tiểu vùng Trung Trung Bộ, tiểu vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Gia Cư

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/giu-dau-ra-on-dinh-cho-nong-san-tay-nguyen-150684.html