Gỡ vướng cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

Luật Hộ tịch đã có thay đổi lớn trong việc xác nhận tình trạng hôn nhân. Công dân 'có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình' thay vì chỉ làm cam đoan như trước đây.

Quy định này nhằm ngăn ngừa những trường hợp lợi dụng để cam đoan sai sự thật, cố ý vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người dân lại gặp khó khăn với chính quy định này.

Linh hoạt, chủ động trong xác minh tình trạng hôn nhân

Chuẩn bị kết hôn, chị Mai Anh đã đến UBND phường nơi chị đang sinh sống thuộc quận Hai Bà Trưng yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Tuy nhiên, yêu cầu của chị không được giải quyết do từ ngày chuyển về phường sinh sống đến nay chị chưa làm thủ tục đăng ký tạm trú. UBND phường nơi chị sinh sống không xác nhận vì không biết chị là ai.

Trước khi chuyển về sống ở quận Hai Bà Trưng, chị Mai Anh từng có thời gian 5 năm sống ở Sơn Tây rồi Hà Nam. Trước đó nữa chị học ở TP Vinh, Nghệ An và hộ khẩu thường trú của chị vẫn ở cùng gia đình tại TP này. Quay về nơi có hộ khẩu thường trú thì UBND phường này trả lời chỉ có thể xác nhận trong thời gian chị sinh sống thực tế ở đây, còn từ đó đến nay (6 năm qua) họ không thể biết chị kết hôn hay chưa để xác nhận.

Đối với những trường hợp đã qua nhiều nơi cư trú như chị Mai Anh thì trước đây khi Luật Hộ tịch chưa có hiệu lực (trước ngày 1-1-2016) có thể làm cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình trong thời gian trước khi về cư trú tại địa phương và chịu trách nhiệm về việc cam đoan.

Tuy nhiên, kể từ khi Luật Hộ tịch có hiệu lực thì người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau phải có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã có văn bản đề nghị UBND cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.

Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, UBND cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho UBND cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.

Theo phản ánh của nhiều người dân, quy định này gây khó khăn cho người dân khi làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Công Khanh, Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Bộ Tư pháp): “Trước đây vì pháp luật cho công dân cam đoan và thực tế triển khai thực hiện cho thấy phần lớn người dân cam đoan đúng về tình trạng hôn nhân của mình.

Nhưng cũng có không ít trường hợp lợi dụng để cam đoan sai sự thật, cố ý vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, gây hệ lụy không nhỏ cho người khác và ảnh hưởng đến hoạt động quản lý Nhà nước về hôn nhân và gia đình.

Do đó Luật Hộ tịch đã có một sự thay đổi lớn trong việc xác nhận tình trạng hôn nhân. Thay vì cho công dân được cam đoan thì nay họ phải có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình.

Bên cạnh đó, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà người dân gặp phải trong quá trình đi xác nhận tình trạng hôn nhân, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư 15/2015/TT-BTP bảo đảm linh hoạt xử lý. Nếu hết thời hạn mà UBND cấp xã được yêu cầu không trả lời kết quả xác minh thì cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình và phải chịu trách nhiệm về việc cam đoan đó”.

Với việc quy định nếu người dân gặp khó khăn trong việc tự chứng minh tình trạng hôn nhân thì UBND cấp xã (nơi nhận hồ sơ) có văn bản đề nghị nơi thường trú trước đây xác minh nêu trên, đã tháo gỡ nhiều vướng mắc cho công dân.

Tuy nhiên, một vướng mắc khác lại phát sinh là pháp luật lại chưa quy định cụ thể về thời gian trả lời xác minh dẫn tới tình trạng UBND cấp xã không nhận được văn bản xác minh hoặc nhận được văn bản trả lời quá muộn, gây khó trong việc giải quyết hồ sơ cho công dân.

Đối với từng thủ tục có yêu cầu xác minh, Luật Hộ tịch đã quy định rõ thời hạn xác minh hoặc thời hạn giải quyết được kéo dài thêm trong trường hợp phải tiến hành xác minh.

Một số thủ tục cơ quan đăng ký hộ tịch phải trao đổi với cơ quan có liên quan để xác minh (như thủ tục đăng ký lại khai sinh, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã qua nhiều nơi cư trú ...), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP đã quy định rõ thời hạn gửi văn bản xác minh và thời hạn trả lời yêu cầu phối hợp xác minh.

Do mỗi trường hợp khác nhau, cơ quan cần trao đổi xác minh là khác nhau, nên pháp luật không thể quy định rõ tổng thời hạn giải quyết mà chỉ quy định thời hạn giải quyết của từng khâu.

Trong bộ thủ tục hành chính (công bố theo Quyết định số 299/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), thời hạn giải quyết các thủ tục này đều ghi rõ là không tính thời gian gửi văn bản xác minh và kết quả xác minh qua hệ thống bưu chính.

Theo Bộ Tư pháp, cơ quan đăng ký hộ tịch cần chủ động căn cứ vào thời gian (trung bình) gửi/nhận văn bản qua hệ thống bưu chính để tính thời điểm quá thời hạn xác minh.

Linh hoạt trong xử lý yêu cầu đăng ký hộ tịch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân. ẢNH: N.AN

Linh hoạt trong xử lý yêu cầu đăng ký hộ tịch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân. ẢNH: N.AN

Không cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết

Thực tế giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch cho công dân, cơ quản quản lý Nhà nước gặp rất nhiều trường hợp yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết, bởi rất nhiều giao dịch dân sự cần đến giấy tờ này.

Anh Nguyễn Đức C kể, bố anh qua đời sớm vì tai nạn giao thông. 10 năm sau thì mẹ anh qua đời. Trước khi mất bà có di chúc để lại toàn bộ tài sản cho anh. “Tôi ra công chứng làm thủ tục thừa kế, công chứng viên yêu cầu tôi phải về phường xin xác nhận tình trạng hôn nhân của mẹ tôi (sau khi bố tôi mất mẹ tôi không kết hôn với ai nữa). UBND phường cho biết không xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết. Tôi phải làm cách nào để giải quyết vấn đề này?”, anh C nói.

Cũng gặp vướng mắc liên quan đến việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết, chị Nguyễn Thị T chia sẻ, cha mẹ chị có để em gái chị đứng tên gửi Sổ tiết kiệm tại ngân hàng. Tháng 10-2014, em chị không may mất vì tai nạn giao thông. Để làm thủ tục rút tiền, cha mẹ chị đã chuẩn bị hồ sơ gồm: Giấy chứng tử, Giấy khai sinh, Chứng minh nhân dân bản gốc của người em gái; Sổ tiết kiệm; Sổ hộ khẩu gia đình và Giấy xác nhận em gái chị chưa kết hôn (Giấy xác nhận này UBND phường chỉ xác nhận từ ngày 1-1-2010 - ngày gia đình chị chuyển hộ khẩu từ Lạng Sơn về Hà Nội).

Có điều, ngân hàng không giải quyết cho cha mẹ chị rút tiền với lý do phải có xác nhận chưa kết hôn trước thời điểm ngày 1-1-2010. Cha mẹ chị về Lạng Sơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân cho em gái chị và được UBND xã giải thích không cấp giấy cho người đã chết theo quy định của Luật Hộ tịch nên chưa biết làm sao rút được tiền trong ngân hàng.

Đối với trường hợp trên, nếu theo quy định cũ tại Điều 66 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch về thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì UBND cấp xã, nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó.

Trường hợp đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau, việc xác nhận tình trạng hôn nhân có thể được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 01/2008/TT-BTP của Bộ Tư pháp là UBND cấp xã, nơi xác nhận tình trạng hôn nhân không rõ về tình trạng hôn nhân của họ ở những nơi đó, thì yêu cầu đương sự viết bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình trong thời gian trước khi về cư trú tại địa phương và chịu trách nhiệm về việc cam đoan.

Do người em gái đã chết, gia đình có thể về UBND xã nơi thường trú trước đây (tại Lạng Sơn) để xin xác nhận về tình trạng hôn nhân của người em trong thời gian cư trú trước ngày 1-1-2010.

Tuy nhiên, theo Bộ Tư pháp, Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành không quy định về việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người chết. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 15/2015/TT-BTP, thì người có yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Do đó, đối với yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết, UBND cấp xã không tiếp nhận, giải quyết.

Bộ Tư pháp cũng hướng dẫn rõ, các tổ chức hành nghề công chứng trong quá trình giải quyết yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch của người dân cần thiết thì xác minh về tình trạng hôn nhân của người đã chết, không được yêu cầu thêm giấy tờ, thủ tục không có trong quy định.

Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Bộ Tư pháp) Nguyễn Công Khánh: “Tình trạng hôn nhân là thông tin quan trọng, gắn liền với nhân thân của mỗi người, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định điều kiện kết hôn, xác định quyền sở hữu tài sản... Dữ liệu này có tính biến động, thậm chí có thể thay đổi ngay sau khi cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (từ chưa có vợ/chồng thành đã kết hôn hoặc từ dạng có vợ/ chồng thành đã lý hôn/góa vợ/góa chồng), có thể gây hệ quả pháp lý nghiêm trọng nếu được xác nhận không đúng, do đó cần được kiểm tra, cập nhật kịp thời.

(Còn nữa…)

Nguyên An

Nguồn PL&XH: http://phapluatxahoi.vn/go-vuong-cap-giay-xac-nhan-tinh-trang-hon-nhan-106368.html