Khẳng định thương hiệu gạo Việt

Vài năm gần đây, gạo Việt Nam không chỉ có giá bán cao hơn trước mà con từng bước khẳng định được uy tín, thương hiệu nhờ tỷ lệ gạo thơm, gạo chất lượng cao, gạo đặc sản dần thay thế loại gạo ở phân khúc trung bình trên thị trường xuất khẩu cũng như nội địa.

Giảm lượng tăng chất, tăng giá trị hạt gạo

Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) từ đầu năm 2020 đến nay, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, xuất khẩu (XK) gạo vẫn được coi là điểm sáng với sản lượng XK lên tới 4,5 triệu tấn và 2,2 tỷ USD, giảm 1,7% về khối lượng, nhưng tăng 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019. Về chủng loại XK, giá trị XK gạo trắng chiếm 45,2% tổng kim ngạch; gạo jasmine và gạo thơm chiếm 36,6%; gạo nếp chiếm 13,7%; gạo japonica và gạo giống Nhật chiếm 4,5%...

 Ảnh minh họa/TTXVN.

Ảnh minh họa/TTXVN.

Ngoài ra, Việt Nam hiện có những loại gạo thơm có giá XK hơn 1.000USD/tấn; thậm chí có thời điểm giá gạo Việt Nam vượt cả Thái Lan ở cùng phân khúc, chủng loại gạo. Dự báo, giá gạo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Đây là tín hiệu vui đối với mặt hàng lúa gạo và nông dân Việt Nam.

Quay trở lại thị trường nội địa, nếu trước đây người tiêu dùng trong nước thường ưa dùng gạo Thái Lan thì vài năm gần đây các loại gạo thơm, chất lượng cao của Việt Nam, như: ST24, tám thơm Điện Biên, tám xoan Hải Hậu, VĐ20, tài nguyên Chợ Đào, gạo lức huyết rồng, nếp cẩm, nếp Tú Lệ, Séng Cù và một số sản phẩm gạo của Tập đoàn Lộc Trời... được người tiêu dùng trong nước sử dụng ngày càng nhiều. Giá gạo thơm, gạo đặc sản, gạo jasmine với mức giá từ 22.000 đến 50.000 đồng/kg. Đặc biệt, sau khi gạo ST25 của Việt Nam giành danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới” đã tạo cơn sốt “săn lùng” loại gạo này trên thị trường trong nước từ cuối năm 2019 đến nay. Nguyên do cơn sốt này là gạo ST25 khi giành “ngôi vương” trên thế giới nhưng mới sản xuất thử nghiệm, chưa được sản xuất đại trà nên sản lượng ít, chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa.

Theo TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn: Lúa gạo là một trong những ngành hàng thành công nhất thời gian qua. Chất lượng gạo cũng thay đổi nhiều và ngày càng được nâng cao. Rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những thành công nêu trên, như: Việt Nam có hệ thống thủy lợi được đầu tư, xây dựng bài bản nhằm phục vụ sản xuất lúa gạo; hệ thống chế biến, bảo quản tốt; đẩy mạnh và thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất lúa gạo... Cùng với đó, người nông dân luôn sẵn sàng tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, như: “1 phải, 5 giảm” (phải sử dụng giống lúa cấp xác nhận hoặc nguyên chủng; giảm lượng hạt giống gieo trồng, giảm phân bón, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; giảm lượng nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch); "3 giảm, 3 tăng" (giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa gạo và tăng hiệu quả kinh tế). Các tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP) trong các loại cây trồng thì cây lúa của Việt Nam cao về năng suất, thấp về giá thành.

Giữ vững thị trường xuất khẩu

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết: "Trong XK gạo, chúng ta đang chịu cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia. Vì vậy, nếu không khẳng định được chất lượng, chắc chắn gạo Việt Nam không có được kết quả XK ấn tượng như thời gian qua".

Tuy nhiên, để gạo Việt ngày càng khẳng định uy tín, thương hiệu trên thị trường quốc tế, tạo được nhiều lợi thế trong cạnh tranh, thì ngoài việc người nông dân phải thực hành đầy đủ các quy định trong sản xuất nông nghiệp, như áp dung quy trình sản xuất gạo (VietGAP, GlobalGAP), tiêu chuẩn "3 tăng" (năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế)...; Nhà nước cũng cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích đặc thù để hỗ trợ người dân và ngành lúa gạo Việt Nam; kể cả hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng để các hộ nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất, chế biến. Việc nhận diện kịp thời những khó khăn, thách thức trong sản xuất lúa và XK cũng giúp người dân, doanh nghiệp tránh được các rủi ro, góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển, trong đó có mặt hàng lúa gạo.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng: Việc XK các nông sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường châu Âu (EU) trong đó có XK gạo không chỉ góp phần nâng cao giá trị kim ngạch XK nông sản Việt Nam mà còn là tín chỉ chứng minh giá trị, chất lượng nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, thị trường hơn 96 triệu dân của Việt Nam cũng cần được ưu tiên. Do đó, cùng với coi trọng nâng cao chất lượng gạo XK, thì nâng cao chất lượng gạo tiêu thụ trong nước, bảo đảm an toàn thực phẩm cũng là nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi cấp, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người nông dân.

Theo Hiệp định EVFTA, 80.000 tấn gạo của Việt Nam được miễn thuế khi XK vào thị trường EU (trong đó 30.000 tấn gạo thơm và 50.000 tấn gạo chủng loại khác). Hiện có 9 giống lúa thơm của Việt Nam khi XK gạo theo hạn ngạch vào EU được miễn thuế nhập khẩu: Jasmine 85, ST5, ST20, Nàng Hoa 9, VĐ20, RVT, OM 4900, OM 5451, tài nguyên Chợ Đào. Hạn ngạch gạo miễn thuế và danh sách các giống lúa thơm vào thị trường EU có thể được điều chỉnh, bổ sung thông qua đàm phán trong thời gian tới (Nguồn Bộ NN&PTNT)

Bài và ảnh: NGUYỄN KIỂM

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/khang-dinh-thuong-hieu-gao-viet-635571