Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và làm gương mẫu cho quần chúng

Tác phẩm 'Đạo đức cách mạng' ra đời trong bối cảnh toàn dân ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Lúc này, ở miền Bắc đã hoàn thành thời kỳ khôi phục kinh tế (1955-1957) và bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960). Muốn cải tạo tốt, người cộng sản không gì khác hơn là nhất thiết phải rèn luyện đạo đức cách mạng, vì có rèn luyện đạo đức cách mạng tốt thì cải tạo mới tốt được.

Xét về mặt triết học, đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự đánh giá về mặt đạo đức xác định những hành vi đã làm có phù hợp hay không phù hợp với những yêu cầu của đạo đức. Trong đạo đức, có đạo đức cách mạng-đó là toàn bộ những nguyên tắc sống và những quy phạm đạo đức phù hợp với hình thái kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tiêu chuẩn khách quan của đạo đức cách mạng là đấu tranh cho sự toàn thắng của CNXH. Các nguyên tắc của đạo đức cách mạng tạo nên những quy tắc đạo đức của người cán bộ, đảng viên.

Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN). Vì CNCN là thứ trái ngược với chủ nghĩa tập thể và CNXH. Cùng với phê phán những thói hư, tật xấu do chế độ cũ để lại mà mọi người cần biết để tránh, Người nhấn mạnh: “CNCN là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”.

Ảnh tư liệu: tuyengiao.vn.

Theo Người, có chống CNCN mới xây dựng đạo đức cách mạng được. Trong tác phẩm này, Người nhiều lần nhắc đến CNCN và chống CNCN. Vấn đề này sau đó, Người đã nêu tiếp trong một số tác phẩm, trong đó có tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, viết năm 1969, nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng. Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, Người luận rằng, những người theo CNCN thường biểu hiện ở việc “kể công” với Đảng, đòi ưu đãi, hưởng thụ, danh dự và địa vị, đòi hỏi quá nhiều quyền lợi cá nhân. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Nếu không thỏa mãn yêu cầu của cá nhân, thì họ oán trách Đảng, cho rằng họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”, rồi dần dần xa rời Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, phá hoại chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng viên bị CNCN trói buộc trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín”. Đó cũng là một thứ CNCN cần phải phê phán.

Cách đây 60 năm, ngay ở thời điểm viết tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, CNCN đang ám ảnh một số đồng chí, sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, kèn cựa, địa vị, vác mặt làm “quan cách mạng”, chung quy là họ không làm nên trò trống gì. Quan điểm của Người là đấu tranh chống CNCN không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, mà là tôn trọng lợi ích cá nhân, nhưng lợi ích cá nhân phải nằm trong lợi ích của tập thể, không mâu thuẫn với lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Một khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể. CNCN là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Vì vậy, thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống CNCN. Người kết luận: “CNCN là một kẻ địch hung ác của CNXH. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề đạo đức cách mạng và chống CNCN còn phải được thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, làm việc để không ngừng tiến bộ. Theo Người, trong học tập, trước hết, phải học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì có học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, hoàn thành nhiệm vụ được giao; để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn. Người phê bình một số người học thuộc lòng sách vở của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng khi va chạm đến thực tế, thì lúng túng hoặc giải quyết một cách máy móc. Họ học sách vở Mác-Lênin, nhưng không học tinh thần của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Học để trang sức, chứ không phải vận dụng vào công việc cách mạng. Người khẳng định: “Xét cho cùng, đó cũng là CNCN”.

Cùng với chỉ rõ việc cán bộ, đảng viên phải ngǎn ngừa và kiên quyết chống lại CNCN, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu “mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng”. Bởi theo Người, những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khǎn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào. Đồng thời, Đảng phải đi sát quần chúng, khéo tổ chức và lãnh đạo quần chúng, thì cách mạng mới thành công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức cách mạng chính là thể hiện ở mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng. Người nói: “Đảng ta là một đảng có tính chất quần chúng, có hàng chục vạn đảng viên”, vì vậy, phải có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Người đảng viên cũng như quần chúng, mỗi khi có khuyết điểm phải thành thật tự phê bình và phê bình để giúp đỡ nhau tiến bộ. “Đảng viên phạm sai lầm thì sẽ đưa quần chúng đến sai lầm, cho nên khi có sai lầm thì các đồng chí ấy sẵn sàng và kịp thời sửa chữa, không thể để nhiều sai lầm nhỏ cộng thành sai lầm to”. Và: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”. Đó là mối quan hệ thiết thực nhất giữa Đảng và quần chúng. Theo Người, khuyết điểm lớn là đảng viên không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Khuyết điểm này cần phải sửa chữa ngay. Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, cùng với quần chúng tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.

60 năm đã qua kể từ khi tác phẩm “Đạo đức cách mạng” ra đời, đất nước ta chứng kiến bao đổi thay to lớn. Nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên đã và đang ra sức học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng và những lời huấn thị ân cần, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chế độ XHCN vững mạnh. Đó cũng chính là thực hiện mong muốn và di huấn của Người về rèn luyện đạo đức cách mạng: “Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

PGS, TS ĐÀM ĐỨC VƯỢNG

Nguồn QĐND: http://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/kien-quyet-chong-chu-nghia-ca-nhan-va-lam-guong-mau-cho-quan-chung-557731