Kinh nghiệm của Na Uy trong hóa giải thách thức nhập khẩu khí hóa lỏng

Đối tác Na Uy nhiều kiến thức, chuyên môn, và công nghệ trong lĩnh vực khí hóa lỏng sẵn sàng chuyển giao cũng như chia sẻ với Việt Nam.

Theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí của Việt Nam đến năm 2025, định hướng tới năm 2035, dự báo giai đoạn 2021-2025, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu 1 - 4 tỷ m3 (LNG) mỗi năm, tăng lên 6-10 tỷ m3 mỗi năm sau đó.

Nhập khẩu LNG là nhu cầu tất yếu

Trong bối cảnh nguồn khí khai thác chưa đáp ứng được nhu cầu này, dự báo sẽ có khoảng 75% lượng LNG nhập khẩu sẽ được sử dụng làm nhiên liệu cho các nhà máy điện để đảm bảo an ninh cho ngành kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Để đáp thực hiện được điều này, Chính phủ đang khuyến khích các công ty trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực LNG hợp tác với nhau, khiến thị trường LNG ở Việt Nam trở nên “sôi động” hơn bao giờ hết.

Các giải pháp nhằm tăng nguồn cung cũng như tối ưu hóa quy trình nhập khẩu, lưu trữ LNG đã được tập trung phân tích tại Hội thảo về khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) diễn ra sáng 4/11 tại Hà Nội do Đại sứ quán Na Uy, Bộ phận thương vụ tại Việt Nam phối hợp tổ chức. Đây chính là diễn đàn giúp các đối tác Na Uy tìm kiếm đối tác trong nước, xúc tiến đầu tư và phát triển các giải pháp, công nghệ tiên tiến cho ngành LNG của Việt Nam.

Ông Lê Hải Đăng, Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Ông Lê Hải Đăng, Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Chia sẻ về nhu cầu sử dụng LNG cho ngành điện, ông Lê Hải Đăng, Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, theo quy hoạch Điện VII điều chỉnh, trong giai đoạn 2025 - 2030 Việt Nam sẽ cần xây mới các nhà máy điện khí LNG với tổng công suất từ 15.000 - 19.000 MW để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng trong nước.

Trong khi đó, theo dự báo, sau năm 2020, nguồn cung khí của Việt Nam sẽ giảm do dự trữ khí trong nước giảm và do việc chậm triển khai các mỏ khí mới. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhập khẩu thêm LNG để bổ sung nhiên liệu cho các nhà máy điện ở khu vực phía Nam.

Theo phân tích của ông Nguyễn Thanh Hà, Giám đốc điều hành Trung tâm tư vấn công nghệ và đầu tư (Vietbid), tất cả những dự án khí nằm trong quy hoạch của Việt Nam hiện vẫn chưa được xây dựng.

Các dự án Sơn Mỹ, Cà Mau, Cát Hải, Thái Bình mặc dù đưa vào quy hoạch nhưng chưa triển khai. Tại miền Bắc chưa thấy dự án nào, nhưng với nhu cầu năng lượng tại miền Bắc dự báo tiếp tục tăng cao, chắc chắn sẽ nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư. “Việt Nam có nhiều nhà đầu tư tìm hiểu và tham gia trong lĩnh vực LNG, nhưng chưa có công ty nào của Na Uy”, ông Hà nói.

Dùng tàu vận chuyển và lưu trữ LNG

Đánh giá tiềm năng từ các đối tác phía Na Uy hiện nay cho thấy, quốc gia này vốn có có bề dày về cơ sở thiết bị và các trạm đầu mối LNG, FSRUs (tàu Vận chuyển và lưu trữ LNG), nhà máy điện LNG nổi, các tàu và thiết bị phân phối LNG quy mô nhỏ, các phương án tài chính khả thi cho dự án LNG... Đặc biệt, Na Uy và Việt Nam cùng có đường bờ biển dài và diện tích tương đương và đều có ngành công nghiệp dầu khí. Trong khi Na Uy là nước xuất khẩu thuần năng lượng thì Việt Nam đang có xu hướng nhập khẩu thuần năng lượng.

Theo Bộ phận thương vụ Na Uy tại Việt Nam, đi đầu với những giải pháp về LNG, các doanh nghiệp LNG của Na Uy hoạt động ở từng mắt xích trong chuỗi cung ứng, từ sản xuất LNG, tới khí hóa, vận chuyển, và sản xuất điện từ LNG.

Đặc biệt, Na Uy là nước đầu tiên trên thế giới phát triển các trạm LNG nổi, vừa hiệu quả về chi phí, tin cậy về giải pháp lại được thi công trong một thời gian ngắn. Na Uy cũng nổi tiếng với những giải pháp xây dựng tàu quy mô nhỏ, để vận chuyển LNG từ trạm tới người dùng cuối trong ngành công nghiệp, gồm các nhà máy điện công suất nhỏ, các cơ sở hóa chất, sản xuất phân bón…

Đại sứ Na Uy tại Việt Nam - bà Grete Lochen thông tin, trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu năng lượng hiện nay ở Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, năng lượng LNG là một phương án thay thế hoàn hảo cho than, giúp giảm thiểu ô nhiễm không khí, bảo vệ môi trường bền vững.

“Na Uy là một trong những quốc gia đi đầu với những giải pháp công nghệ cao và thông minh cho toàn chuỗi cung ứng LNG. Các công ty Na Uy có rất nhiều kiến thức, chuyên môn, và công nghệ trong lĩnh vực này và sẵn sàng chuyển giao cũng như chia sẻ với Việt Nam”, bà Grete Lochen cho hay.

Hội thảo Khí tự nhiên hóa lỏng Na Uy - Việt Nam.

Tư vấn về chiến lược phát triển nguồn LNG, ông Baptiste Debaene, Giám đốc phát triển kinh doanh, Công ty Hoegh LNG cho rằng, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên 6%/năm, đồng thời có nhu cầu về khí nhiều hơn phục vụ cho sản xuất điện, phân bón, công nghiệp,… nên Chính phủ Việt Nam cần có thêm các nhà máy chạy gas trong sơ đồ phát triển điện.

Tuy nhiên, trong khi lượng khí dự trữ đang giảm dần chắc chắn Việt Nam sẽ có nhu cầu nhập khẩu LNG. Để đạt được mục tiêu nhập khẩu sớm, ông Baptiste Debaene cho rằng, Chính phủ cần ủng hộ một khung quy định chính sách cho nhập khẩu LNG; trong đó cần chú trọng hài hòa hóa trong quá trình ra quyết định, những yếu tố về thuế, quy định...

Đề xuất công nghệ Tàu vận chuyển và lưu trữ LNG (FSRUs) với nhiều ưu điểm vượt trội và thích ứng với thị trường Việt Nam, ông Baptiste Debaene cho đây là công nghệ mới, giúp rút ngắn thời gian đầu tư và Việt Nam có thể tiếp cận thị trường một cách cạnh tranh.

“Khi tiềm năng và các dự án khai thác LNG của Việt Nam còn ở quy mô nhỏ, việc xây kho chứa LNG hiện nay là chưa phù hợp với chi phí tốn kém. Với hệ thống FSRUs, LGN nhập khẩu có thể được chuyển xuống hoặc sử dụng như FSRUs một cảng nổi hay tàu chứa. Điều này sẽ linh hoạt khi không cần FSRUs sẽ có thể yêu cầu chuyển tàu ra khu vực khác. Tính ưu việt của công nghệ FSRUs đã được khẳng định tại nhiều quốc gia” ông Baptiste Debaene cho biết./.

Nguyễn Quỳnh/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/kinh-nghiem-cua-na-uy-trong-hoa-giai-thach-thuc-nhap-khau-khi-hoa-long-974611.vov