Kinh nghiệm nội tâm & ngôn ngữ

Tự chứng, tự ngộ có thể xảyra được là nhờ vào sự hiện hữu của Như Lai tạng (Tathāgata-garbha)trong tâm mỗi chúng sinh. Tạng (garbha

) theo nghĩa đen là “thai” hay “mộtcái gì đó chôn dấu bên trong”, nó có nghĩa là chủng tử (hạt giống) của Như Lai,từ đó sinh ra sự toàn giác.

Ngôn ngữ luôn mang tính phân biệt, Ảnh minh họa

Tuy nhiên, tạng này thường bị che lấp dưới những lớpvỏ của phân biệt vọng tưởng (parikalpa hay vikalpa) và chấp trướcphi lý (abhinivesá). Vọng tưởng phân biệt được sinh ra do bởi không thâýđược chư pháp y như thực (yathābhūtam), nghĩa là, không chịu sự chi phôícủa nguyên lý sai biệt do tâm tác động lên các pháp ngoại tại. Còn chấp trướclà hậu quả không tránh khỏi của vọng tưởng phân biệt, nó gây cho ta đủ thứ sâùbi khổ não. Do đó, Như Lai tạng (Tathāgata-garbha) bản lai thanhtịnh và vô nhiễm, phải được phục hồi trở về trạng thái tự nhiên vô chấp. Nó thườngđược ví như viên ngọc vô giá bị chôn vùi dưới lớp vải che uế trọc. Bỏ lớp vảiche kia đi, viên ngọc rực rỡ kia sẽ chiếu tỏa ánh linh quang tuôn trào lên vạnhữu để vạn hữu hiển lộ y như thực. Sự chiếu diệu giải minh đạt được đó là trạngthái tự chứng và lúc ấy, ta thấy Như Lai tạng rõ ràng như thấy trái amalakatrong lòng bàn tay. Một khi Như Lai tạng được gột sạch hết mọi ô nhiễm thì nóvượt ngoài tầm tư nghì của hàng ngoại đạo và sở đắc của hàng Tiểu thừa. Tác giảkinh Thập địa (Dasábhūmka) cũng như kinh Lăng-già gọi nólà Vô phân biệt trí (avikalpa hay nirvikalpajnã̄na) hay Chân nhưtrí (Tathatajnã̄na).

Cho dù cứu cánh có mang tính thực tiễn đi chăng nữa,song kinh Lăng-già vẫn đầy các danh từ trừu tượng, điều đó đã đẩy nhữngngười chưa quen thuộc với nền văn học Phật giáo xa khỏi công việc nghiên cưúkinh sâu hơn. Nhưng điều này không thể tránh khỏi, bởi vì cảnh giới mà kinh Lăng-giàtuyên thuyết không nằm trong tầm thể hội của ý thức vốn thường bị ngột ngạt bơỉcác khái niệm đối nghịch mâu thuẫn lẫn nhau. Về điểm này, lập trường kinh rấtrõ ràng minh bạch khi thuyết rằng kẻ nào còn bám víu, chấp trước vào ngôn từthì sẽ không thể hội được chân lý[1] (tattvam) và “cảnh giơíthù thắng vượt ngoài ngôn thuyết và phân tích”[2].

Quả thựctrong kinh, Đức Phật nhắc nhở không mệt mỏi cho ta một điều rằng: ngôn ngữ quánghèo nàn để mô tả đúng cảnh giới tự chứng. Ðiều này nằm trong chính bản chất củangôn ngữ. Ngôn ngữ luôn mang tính phân biệt, khi ta đề cập đến vật này thì nóphải được phân biệt với các vật khác, như thế là đã giới hạn nó trong một dungđộ hay trình hạn nào đó. Còn giây phút tự chứng tối thượng thì không bị ướcthúc và biện biệt dưới bất kỳ hình tướng nào, có lẽ cách duy nhất để diễn tả nólà nói “Cái đó”, hoặc trừu tượng hơn, là “Như Như” (Tathatā), song làmnhư thế cũng vẫn là vọng chấp (prikalpa) và làm méo mó khái niệm đó đi.Chừng nào chúng ta vẫn còn y nhiên là chúng ta, còn bị trói buộc vào các đòi hỏicủa cuộc sống vật chất, và các yêu cầu tự nhiên của suy tư luận lý thì ngôn ngữlà điều không thể tránh khỏi. Và cho dẫu chúng ta không dùng ngôn ngữ đi nưãthì vẫn phải, bằng cách này hay cách khác, nhờ đến các điệu bộ và chuyển động củavài bộ phận trên cơ thể[3].

Như kinh Lăng-già nhận xét, trênkhắp thế gian, không thiết yếu phải sử dụng ngôn ngữ mới truyền đạt được tư tưởngvà cảm xúc, bởi vì ở một vài cõi Phật, Đức Phật chỉ cần giáo hóa bằng cáchnhìn, hoặc bằng cách chau mặt, nhướng mày, hoặc mỉm cười, hoặc tằng hắng hoặc bằngcác cử động khác. Ngôn ngữ minh bạch không phải là điều thiết yếu tuyệt đôítrong sự giao dịch giữa loài người. Kinh chép rằng trong non nước của Phổ HiềnBồ-tát (Samantabhadra) chỉ cần nhìn suông là đủ để một người chứng được Vô sinh pháp nhẫn (Anutpattikadharmakshānti).

Ngay trong thế giới này,kinh nói, công việc trong đời sống thường ngày vẫn được tiến hành có hiệu quảgiữa loài kiến và loài ong, là những loài không dùng đến ngôn ngữ. Nếu thế thìta cũng chẳng cần phải ngạc nhiên về việc các Thiền sư chỉ đưa một ngón tay hoặchét một tiếng vô nghĩa để minh chứng cho cảnh giới thâm huyền nhất mà ý thứccon người có thể đạt đến, khi mà trong tâm hồn ta không có gì để sẵn sàng đáp ứnghoặc không có gì được đánh thức dậy để nắm bắt những tia chớp lóe từ một tâm hồnkhác, thì cho dù người đó có dùng ngôn ngữ diễn đạt tinh tế đến mức nào đi nữa,tâm hồn ta cũng vẫn hoàn toàn mù lòa trước chân lý. Mặt khác, nếu có một sự hoàthanh tương ứng giữa hai bên thì khi chạm vào bên này sẽ tạo nên sự cộng hưởng ởbên kia. Một năng lực như thế không có trong ngôn ngữ, dù ta không thể không cầnđến nó bằng mọi cách.

Ở điểm này, kinh Lăng-già phân biệt rõ rànggiữa văn tự (ruta) và ý nghĩa (artha), và khuyên ta không nên chỉdựa vào văn tự để hiểu ý nghĩa (y ngữ thủ nghĩa), vì điều đó sẽ phá huỷhoàn toàn Thực Tướng. Các từ chỉ là sự phối hợp giữa âm và tuân theo sự phântích của tri thức cùng lý luận. Ngôn ngữ do ngôn từ hòa hợp với vọng tưởng màthành (vāgakshana-samyoga-vikalpa). Khi ta đàm thoại, ngôn ngữ thoát ratừ khẩu cái giữa hai hàm răng, hàm, vòm họng, lưỡi và môi. Các biến thái, cáchchia động từ, cùng các thêm thắt tu từ và ngữ pháp được phát sinh tùy theo vọngchấp phân biệt (vikalpa) và tập khí (vāsanā) [4]của người nói. Còn ý nghĩa (artha) là sức nội quán sở đắc trong tựchứng khi ta tạo ra được, trên đường đi đến Niết-bàn, sự chuyển y (parāvritta)[5]trong phần sâu thẳm nhất của ý thức được gọi là A-lại-da thức (Ālayajnã̄na).

Ðể đạt được sức nội quán này, ta phải ẩn một nơi cô tịch và do kiên trì tu tậpthiền quán, trí Bát-nhã (Prajnã) hoặc Tự giác (svabudhi) sẽ bừngsáng lên từ dưới lớp tập khí (vāsanā) của tư tưởng, cảm xúc và hành độngđược tích lũy từ vô thủy. Ý nghĩa (artha), được liễu chứng như thế trongtận cùng ý thức, là một cái gì đó mà không một sự kết hợp nào của giác quan lạicó thể diễn đạt tương xứng với kinh nghiệm này. Nhưng cũng như tìm một vật gìđó trong bóng tối thì ta phải nhờ đến ngọn đèn[6], cuối cũngý nghĩa phải được lãnh hội bằng phương tiện ngôn ngữ, ít nhất nó phải có khuynhhướng như thế. Sự thấu triệt mối tương quan giữa văn tự (ruta) và ýnghĩa (artha) sẽ là điều cần thiết ngôn ngữ nếu ta muốn biết bản chất củathánh trí tự chứng (svapratyātmajnã̄na).

Sự tương quan giữa ngôn ngữ và ý nghĩa, hoặc giưãvăn từ (akshara) và thực tướng (tattvam hoặc tathāvam), hoặcgiữa ngôn thuyết (desána) và chân lý (siddhānta), cũng giống nhưsự tương quan giữa ngón tay và mặt trăng. Cần phải có một ngón tay để chỉ mặttrăng nhưng không nên chấp ngón tay làm mặt trăng. Nếu ta chấp văn tự (aksara)hoặc ngôn ngữ (ruta) hoặc ngôn thuyết (desána) làm chính tự thâncủa thực tại thì điều đó cũng gây nên các hậu quả tai hại tương tự. Những kẻnào không thể rời mắt được khỏi đầu ngón tay sẽ không bao giờ liễu ngộ được đệnhất nghĩa đế (paramārtha) của các pháp[7]. Lại cũnggiống như nuôi một đứa bé bằng thức ăn không nấu, sẽ quá trễ để cứu sống nó khinó đã gục chết trước sự nuôi dưỡng dại dột của bà mẹ kia. Những ai tu tập vàhành trì giáo lý Phật giáo nên phân tích điểm này cho rõ ràng. Lẽ dĩ nhiênchúng ta sẽ không biết được nội dung của Phật pháp nếu như ta không có sự hôịthông với ngữ ngôn văn tự. Văn tự rất cần thiết, nhưng khi không có sự tươngưng giữa văn và ý thì ngôn thuyết tự nó sẽ trở nên vô nghĩa. Suốt cuốn kinh Lăng-giàluôn luôn nhắc nhở rằng Như Lai không thuyết các pháp đọa vào văn tự (đoạvăn tự pháp 墮 文 字 法 aksarapatita),do đó Phật cùng các bậc pháp sư tuyên bố rằng: Như Lai chưa từng nói một lơìnào dù để trả lời hay thuyết pháp trong suốt quãng đời từ khi chứng ngộ cho đếnlúc nhập Niết-bàn”[8]. Ý đó có nghĩa là “Ðừng chấp vào ngônngữ văn tự.” (Na desánā-ruta-bhinivesátam).Bởi vì “dharmo naira ca sésito bhagavatā pratyātmavedyo yata”[9].

Ta phải xem văntự, trong mức độ tương quan với ý nghĩa, như ánh trăng trong nước. Ánh trăng vẫncó đấy, song chính vầng trăng không đi vào (apravishtam) trong nước,nhưng cũng không được xem như trăng không có chút tương quan (nirgatam)nào với nước, bởi vì cũng có một chút gì đó trong nước phản chiếu lại vầngtrăng[10]. Chỉ cần chúng ta đừng để mình rơi vào thói quenbàn suông một cách hời hợt về thực nghĩa. Ðây là lời cảnh cáo của kinh Lăng-già:“Yathārutār-thābinivesásanidhau na prapatata[11] .

Đại sư Suzuki
Huỳnh Ngọc Chiến dịch

____________________________

* Bản dịch được thực hiện theo nguyên tác tiếng Anh Studies in Laṅkāvatāra Sutra, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhi, 1998, của Đại sư Suzuki, các trang 105-110.

(1) “Giống như những ngươìngu chấp ngón tay làm mặt trăng, cũng thế, những kẻ nào chấp vào văn tự sẽkhông hiểu được pháp của ta”.

(2) “Chân lý chứng đắclà cảnh giới giác ngộ thù thắng vượt ngoài ngữ ngôn văn tự và phân biệt, nó đưađến cảnh giới vô lậu; nó chính là căn cơ của sự chứng ngộ, nó không liên quangì với trò huyền đàm hý luận của ngoại đạo cũng như của tà đạo, phá hủy luận điểmcủa ngoại đạo và tà đạo, thì sự chứng ngộ sẽ hiện rõ tự thân”.

(3) Có lẽ tác giả muốn đềcập đến cái mà hiện nay gọi là “ngôn ngữ thân xác” (body language) (N.D)

(4) Vikalpa nghĩa đen là“sai biệt”, “xác định”, “phân biệt”, tiếng Trung Quốc dịch là “phân biệt 分別”, là chức năng đặc biệt của suy tư; còn vasana (tập khí) làtừ khó hiểu, bao hàm toàn bộ triết học và tâm lý học của Đại thừa. Trong Anh ngữkhông có từ tương đương, nó được dịch là “ký ức: memory”, “năng lực của thóiquen: habit energy”, “ấn tượng: impression”.

(5) Theo bản dịch đời Đường:“Họ [các nhà Tiểu thừa] không hiểu rằng đại Niết-bàn chỉ đạt được thông qua nôịchứng, trong đó xảy ra sự chuyển y trong A-lại-da thức, là thức làm điểm tưạcho thế giới ngoại trần.” Tác phẩm TriṁsíkāvijnãptikārikāXXIX của Thế Thân cũng nói đến sự chuyển y này.

(6) “Nhờ vào ánh sáng củangôn ngữ và phân biệt, Bồ-tát Ma-ha-tát vượt ngoài ngôn ngữ và phân biệt, để đivào con đường tự chứng”.

(7) “Phàm phu mê chấpvào ngón-tay-chỉ của ngôn ngữ nên đến chết cũng không đạt được pháp vô thượng”.

(8) Ý tương tự cũng đượctrình bày trong Như Lai bí mật kinh如 來 秘 密 經 (Tathāgataguhya - Sūtra).

(9) Sūtra-lāmkāra,XII, 2, “Đức Phật không bao giờ thuyết giảng về Chân đế, bởi vì Ngài muốn mọingười phải tự chứng lấy”.

(10) Jalacandra hayUdakacandra: trăng trong nước. Điều này cũng được dùng để phô diễn năng lực củaNhư Lai tự thị hiện như các môn đồ hình dung, đồng thời cũng biểu tượng hóa bảntính của hiện hữu, xem như chỉ là giả tướng.

(11) "Đừng rơi vào sai lầm vi tế khi chấpvào ý nghĩa như nó được diễn tả trong ngôn ngữ".

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phathocungdung/2019/06/26/5a6682/