Kỳ 2: Làng nghề trong cơ chế thị trường

SGTT - Đến làng mộc Long Điền A, Chợ Mới nghe tiếng máy cưa cắt ầm ì như bao vây không gian quanh đó, tiếng dùi đục lách cách chạm nhau – âm thanh cổ truyền của hàng trăm năm trước làm vui một khúc sông Tiền – thi thoảng mới nghe thấy khi máy cưa tạm ngừng. Từ người chủ đến kẻ học nghề đã mang dáng dấp, tác phong công nghiệp.

Đất cù lao: Những làng nghề trăm năm Mẫu mã lưỡi hái đã được đóng bao bì, in nhãn hiệu để chống hàng nhái. Ảnh: Doãn Khởi Bây giờ không như trước – một người thợ phải làm hầu hết mọi khâu, từ lọc gỗ, vẽ mẫu đến cưa, đục, đánh bóng – tất cả đều chia công đoạn, những việc nặng như xẻ gỗ, lọc gỗ đã có máy làm. Làng nghề công nghiệp Xưởng con gái ông Tư Chia có ngoài chục thợ, đứa cháu ngoại tên Phong chừng 20 tuổi có tiếng là khéo tay chỉ ngồi cầm viết lông vẽ mẫu thẳng trên súc gỗ đã lọc. Mẫu do người mua và người sản xuất chọn, đề tài khá phong phú, từ tứ quý (mai – lan – cúc – trúc), tứ linh (long – lân – quy – phụng), đến lưỡng long triều nhật (hay lưỡng long tranh châu)… Cái khó nhất của nghề chạm khắc là vẽ mẫu, nó đòi hỏi có năng khiếu thật sự chứ không chỉ cần mẫn quen tay. Ông Tư Chia, ngoài 86 tuổi nhưng vẫn là người vẽ chính của xưởng ông, kể: 70 năm trước, khi vác gạo học nghề, chỉ ít hôm, ông có thể cầm bút vẽ được. Người thầy vừa phục, vừa sợ nên không muốn truyền nghề vẽ. Không học được thầy, ông chuyển hướng học lóm bạn, dần dà nét vẽ không kém người đi trước. Nay những đơn hàng khó nhất, phức tạp nhất của gia đình, phải ông tự tay vẽ mới xong. Chia công đoạn hàng sẽ làm nhanh hơn và đẹp hơn nhiều vì mỗi người chỉ phải chuyên chú một khâu. Những khâu xưởng không chuyên như cẩn (khảm) xà cừ sẽ chuyển cho xưởng khác, chữ Hán thuê người vẽ… Nhân cớ, ông kể chuyện xưa, nhà ông nội của ông Hai Khiêu ở gần đó, ngoài trăm năm trước mướn thợ cất nhà, chỉ tính phần chạm khắc phải dùng 12 thợ đục đẽo suốt một năm ròng mới xong, nhưng nay chỉ mất khoảng một tháng. Được và mất Làng rèn ở Phú Tân (dân trong vùng vẫn quen gọi làng Hòa Hảo), từ lâu người ta đã tính toán chia công đoạn trong một lò và mỗi lò chỉ làm chuyên một vài mặt hàng. Lò của ông Trương Văn Khanh (nhãn hiệu Trương Khanh) chỉ chuyên làm lưỡi hái, thỉnh thoảng mới rèn thêm dao, búa. Là người dẫn đường đến các lò khác, ông Khanh giới thiệu, đây chuyên làm leng, kia chuyên làm dao… Mỗi lò, vì làm chuyên một mặt hàng, nên người và dụng cụ làm hàng theo đó cũng chuyên biệt, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật để “đẻ” con dao, lưỡi hái nhanh hơn lần lượt ra đời. Người nắn khuôn, lấy chấu, trui, tra cán… đều riêng, dây chuyền đều như một cái máy. Vì vậy, một thợ lấy chấu có thể làm cả trăm lưỡi hái một ngày. Mỗi năm lò ông Khanh bán được hơn 30 ngàn sản phẩm. Nhưng lò rèn Trương Khanh mới chỉ là một trong hơn 50 lò rèn của làng rèn Hòa Hảo. Đấy là mặt phải, ở làng nghề tranh kiếng Chợ Mới, chính những sáng chế cải tiến kỹ thuật đã “giết” phần nhiều người làm nghề. Truyền thống là vẽ tay, thợ giỏi vẽ mẫu, kém hơn giặm màu, trẻ con mươi tuổi cũng cầm bút được. Lúc đó trăm nóc nhà làm ngày đêm và sống sung túc. Nhưng vào khoảng năm 1988, một vài người làm tranh kiếng và biết nghề in lụa đã kết hợp 2 trong 1. Một bước ngoặt, tất cả công đoạn vẽ đều vứt bỏ, chỉ trừ vẽ mẫu, vì chỉ cần kéo mảnh vải trong khuôn mất vài giây, màu sắc đậm nhạt như ý, chuẩn hơn vẽ tay nhiều, tất nhiên chi phí làm ra bức tranh giảm đáng kể. Cơ sở ông Nguyễn Thanh Hòa vào loại lớn nhất vùng nhưng cũng chỉ cần người vẽ mẫu là đủ. Thêm nữa, khung thuê nhà mộc làm. Thành thử thợ nếu không vẽ được mẫu đẹp phải bỏ nghề hay bỏ xứ đi vẽ dạo trên những khung kiếng, gỗ, tường… ngoại cỡ, nơi máy kéo lụa không làm được. Dù hiện tranh kiếng không còn bán được nhiều như mười năm trước nhưng tranh vẫn làm đều, chỉ khác cũng tổng lượng tranh đó, trước chia đều ra trăm nóc nhà, nay dồn lại dăm ba cơ sở. Đem chuông đánh xứ người Khoảng 50 – 60 năm trước, ở làng nghề mộc Long Điền A luôn có một đội ghe tàu lớn chừng 30 chiếc neo sông túc trực chờ hàng. Các lái này được dân mộc gọi là lái Định Tường vì họ từ Mỹ Tho lên. Lái thầu mua hết bàn ghế, giường, tủ… đem đi khắp các miệt vùng đồng bằng bán: Bến Tre, Long An, Cà Mau… Chừng ngoài hai chục năm nay, sau thời bao cấp, nghề mộc xứ này phát triển mạnh lại, chuyện sản xuất đồng loạt và bán buôn như xưa giảm hẳn. Thay vào đó, những vùng khác biết danh mộc Chợ Mới kéo về đặt hàng, công trình nào lớn như đình, chùa… người đặt hàng đưa cả xe hơi về rước chủ thợ lên coi ngó, tính toán, ký hợp đồng. Người làm nghề không phải tốn hơi lo đầu ra trong bối cảnh hiện tại khi hàng thì ít mà nhu cầu ngày càng đông. Nhiều năm trước, hợp tác xã ngành rèn Hòa Hảo đã đăng ký thương hiệu độc quyền, trên thương hiệu chung, mỗi thành viên (lò rèn) cũng đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho riêng mình. Ông Trương Văn Khanh nhớ lại hành trình chống hàng nhái đầy cam go: vốn chất lượng đồ nông cụ ở vùng này rèn hơn hẳn các nơi khác, người ta bèn nhái mẫu mã, cũng lấy thương hiệu rèn Hòa Hảo. Lò chánh gốc thấy vậy bèn khắc luôn thương hiệu lên lưỡi hái, cũng chẳng ăn thua, họ bèn dán thêm lên lưỡi hái “tem” có ghi địa chỉ và hình người sản xuất, vẫn bị nhái. Mất nhiều năm vừa lo vật lộn tìm đầu ra, vừa lo chống đồ nhái đến ít năm trở lại đây, chủ lò phải đầu tư luôn công nghệ đóng bao và in ấn trên bao bì. Đến nước này, đồ nhái mới giảm bớt vì chi phí làm bao bì không rẻ (gần 10%). Thách thức lớn nhất trong việc tìm kiếm thị trường mới là tranh kiếng, để có được đầu ra ổn định như bây giờ, ngoài việc tăng chất lượng, giảm chi phí như đã nói ở bài trước, ông Hòa đã từng phải lặn lội sang cả Lào và Campuchia để tìm thị trường, còn trong nước, hàng của ông luôn có mặt ở những vùng có dân ưa chuộng. Quẫy đạp như vậy, ông và một số ít người nữa thành công, những người kém nghĩ hơn lại quay về cách cũ: đi bán dạo, nhưng bán dạo bây giờ cũng không kiếm được như xưa bởi nay giao thông đã thuận tiện nên một chiếc ghe len lỏi vào vùng sâu, xa bán tranh – được coi như một ưu thế ngày trước – nay cũng không còn nữa. Nguyễn Trọng Tín – Doãn Khởi Kỳ sau: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh

Nguồn SGTT: http://www.sgtt.com.vn/detail24.aspx?columnid=24&fld=htmg/2010/0325/64709&newsid=64709