Lễ hội công giáo ở Philippin và Việt Nam

Thánh Vinhsơn Phaolô (1581-1660) ở Pháp sau khi học khoa thần học ở Toulouse, bị bán làm nô lệ ở châu Phi, rồi lại trở về nước làm linh mục giáo xứ đã để xuất cách truyền giáo 'đi từ làng này sang làng khác để khuyên bảo, giảng dạy kinh bổn cho dân quê.'

Cách làm này đã được áp dụng triệt để bởi các linh mục truyền đạo ở Đông Nam Á. Có người còn hòa nhập vào cộng đồng, giả theo Ấn Độ giáo, Phật giáo bằng trang phục, sau khi làm quen môi trường sống, mới giảng giải Cựu ước, Tân ước và lôi kéo dân chúng theo Công giáo. Bằng cách ấy, Công giáo truyền vào các nước Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đã đọng lại ở Việt Nam và Philippin nhiều nhất, đến nay vẫn là điển hình của cả khu vực. Đúng vào thời điểm ấy, công nghiệp cơ khí, chế tạo máy đã phát triển ở các nước phương Tây. Cách mạng tư sản đã nổ ra ở Anh, Pháp. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha giàu mạnh nhờ phát kiến địa lý và buôn bán đường biển. Công giáo đã thể chế hóa kinh sách nghi lễ. Hiến chế, sắc lệnh, tuyên ngôn đều đã tương đối hoàn chỉnh, nên lễ hội Công giáo ở khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chặt chẽ trong khuôn khổ cho phép của giáo hội.

Tình hình đó khiến cho lễ hội Công giáo ở Đông Nam Á rập khuôn máy móc ở buổi ban đầu. Ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu lễ hội Công giáo ở Philippin và Việt Nam.

1. Được tổ chức bằng nghi thức thánh lễ khá chặt chẽ, lễ hội Công giáo ở Philippin đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm lý cộng đồng dân tộc có ý nghĩa quốc gia. Người dân ở quốc gia biển đảo Philippin, cho dù họ không phải là giáo dân vẫn bị cuốn hút theo lễ hội Công giáo. Gần như quanh năm, không mấy lúc là các bài thánh ca bị nhãng quên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cách ngày lễ Giáng Sinh gần ba tháng, trên khắp đường phố, nẻo đường, giáo dân đã chăng đèn lồng, đèn mầu, kết hoa, treo băng biển chào mừng. Ngay cả các trường học, công sở, cây thông Noel đủ các cỡ to, nhỏ đã bày rực rỡ ở vị trí sang trọng. Tranh ảnh, phù điêu, mô hình chúa giáng sinh có những người chăn cừu và ba vị vua từ ba nước tới chúc mừng được trưng bày khắp nơi. Cả không gian tỏa sáng bởi giấy màu kim tuyến trên khung cửa, trước hiên nhà.

Nhộn nhịp nhất ở từng gia đình, ai cũng lo sắm sửa quần áo gọn gàng sạch sẽ, lo làm bánh thánh kính dâng lên Chúa và xin Chúa cho ăn trong lễ đón lúc giao thừa vào 0 giờ ngày 25. Sáng sớm ngày 25, ông già Noel hoặc người lớn trong nhà giáo dân đồng loạt cho quà con trẻ.

Cả ngày lễ hội, số các thầy cả vào lo công việc tại nhà thờ. Giáo dân ở đủ các tầng lớp lứa tuổi có thể tham dự các đám rước chiêng trống trước sân nhà thờ, rồi tụ tập vào trong nhà thờ cầu kinh. Mục Ai ca trong Kinh Thánh có dạy: "Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Vượt qua, Hội thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa giáng sinh và kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của người vào mùa Giáng Sinh. (AC.32)(1). Và "Hôm nay các linh mục có thể cử hành hay đồng tế ba thánh lễ, miễn là vào giờ thích hợp cho mỗi thánh lễ." Ngoài việc quy định đọc từng đoạn trích Kinh Thánh trong Sách lễ còn chỉ rõ: "Chúa Giáng Sinh lễ trọng. Lễ buộc Lễ cầu cho giáo dân trong lễ đêm Noel, tòa thánh quy định cho giáo dân chỉ được đọc trích các kinh Ti-tô, kinh Lu-cakinh I-sai-a.

Mục 9 từ câu 1 đến câu 6 kinh I-sai-a có tên là Ơn giải thoát. Câu 1 ca ngợi chúa bằng lối văn giáo huấn:

Dân đang lần bước giữa tối tăm

Đã thấy một ánh sáng huy hoàng

Đám người sống trong vùng bóng tối

Nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi(2)

Câu 6 cũng tương tự như hình ảnh Chúa giáng sinh cụ thể hơn:

Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta

Một người con đã được ban tặng cho ta.

Người gánh vác quyền kính trên vai

Danh hiệu của người là cố nhân kỳ diệu,

thần linh dũng mãnh

người cha muôn thuở, thủ lĩnh hòa bình

(Kinh Cựu ước- Sách huấn ca) (3).

Đoạn trích kinh Ti-tô từ câu 11 đến câu 14 có chỗ khẳng định: "Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người" (t.t)

Những con chiên đến nhà thờ kính lạy Chúa, thường đọc bài kinh Đức Chúa Giêsu ra đời, kể chuyện "cuộc kiểm tra dân số đầu tiên" (L.c 2.2) ở thành Bê-lem, khi đó ông Giuse "khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy có những người chăm chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn súc vật nuôi. Bỗng nhiên thấy vị sứ thần của Chúa xuất hiện chúa đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa xung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân (… ) người là đấng Ki-tô đức Chúa." (L.c 2,5-12)(4)

Với tất cả những quy định chặt chẽ như vậy, công việc phụng vụ có lịch cụ thể, lễ cầu kinh được chỉ dẫn mạch lạc, chi tiết nên mọi hoạt động lễ hội mùa Giáng Sinh ở Philippin nặng hơn về phần lễ.

Âm thanh kèn, trống, não bạt và toàn dân giáo xứ kéo đến nhà thờ có trật tự, nền nếp cả ban đêm và ban ngày, tạo ra niềm vui cho cả cộng đồng.

Cách thức tổ chức lễ hội Giáng Sinh có thể coi là điển hình cho các lễ hội Công giáo khác ở Philippin. Lễ hội Mùa Chay là dịp giáo dân Công giáo tưởng niệm đến cái chết và sự phục sinh của chúa Giêsu. Lễ hội được sách Nghi thức giám mục đặt quy chế: "Trong mùa chay, không được chưng bông (bày hoa—T.S.H chú) trên bàn thờ và chỉ được dùng nhạc cụ để đệm hát mà thôi, trừ chúa nhật IV (chủ nhật thứ 4 trong tháng hai—T.S.H chú) và các ngày lễ trọng cùng lễ kính, có thể dùng màu hồng" (C.E 41, 252,300) (5). Khi giáo dân đã lũ lượt đến lễ hội, ai ai cũng phải nghiêm cẩn tuân thủ theo nghi thức thánh lễ.

Lễ Tro diễn ra vào ngày thứ tư, mở đầu lễ hội Mùa Chay. Linh mục xức dầu Tro lên trán, giáo dân đồng loạt làm dấu thánh. Dấu thánh là nước lá thơm có hòa tro lá đã để giành lại từ Mùa Chay năm trước. Ở Philippin, giáo dân còn dựng lại tích chúa Giêsu bị hành hình và sau ba ngày Chúa sống lại, gặp gỡ các tông đồ giống như những tiểu phẩm sân khấu hiện đại.

Lễ Lá diễn ra vào ngày chủ nhật trong lễ hội Mùa Chay là ngày trọng đại nhất. Nhiều cuộc diễu hành, diễn xướng không khác kịch nghệ là mấy, thể hiện chặng đường Chúa Giêsu đi đến Jerusalem. Tán, lọng che tượng trưng cho Chúa, trên đường đi là do giáo dân làm bằng những tầu lá dừa to đẹp với rất nhiều hình dạng khác nhau. Trước khi đoàn diễu hành khởi sự, các vị linh mục đã làm thánh.

Mở đầu cuộc lễ Lá, linh mục ban phép cho những chiếc tán, lọng làm bằng lá dừa, với những hình dáng khác nhau do các giáo dân đã làm sẵn mang đến lễ hội. Những tán, lọng bằng lá dừa sau ngày lễ hội, được giáo dân mang về nhà cất giữ để làm bùa chữa bệnh. Quanh năm, mỗi khi nấu nồi nước tắm, người ta cho vào một vài lá lấy thiêng, tương truyền là cách làm theo ý Chúa để phòng trừ bệnh tật. Linh mục cũng giữ một phần để ban phúc thánh, hoặc đốt làm tro để làm lễ Tro năm sau.

Tuần Thánh trong lễ hội Mùa Chay là thời gian để các linh mục và toàn thể các giáo xứ tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Chúa. Giáo hội cử hành những phép mầu nhiệm cứu độ mà Chúa đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng ở trần thế; đến lúc Chúa đã vào thành Giêrusalem với tư cách là đấng Mêsia, đến cuộc Thương Khó, hồng phúc và Phục Sinh vinh quang. Tại nghi lễ Tuần Thánh, linh mục ban phép cho giáo dân, trông coi lễ rước lá. Kiệu Chúa đi trước về nhà nguyện làm lễ Tiệc Ly, lễ Vượt Qua tưởng niệm Chúam dưới sự lĩnh xướng của cha xứ hoặc trưởng họ đạo. Tuần Thánh trong lễ hội Mùa Chay hát thánh ca theo nghi thức, ca ngợi cuộc đời và phép màu nhiệm của Chúa. Người Philippin gọi lễ Lá là “pabasa”. Có một số nam giáo dân sám hối, cởi bỏ áo, lấy dây da có gai tự đánh vào lưng mình đến mức xây xát, chảy máu để thể hiện ý chí thực hiện lời nguyện (panata) trung thành trước Chúa, cầu Chúa tha thứ những lỗi lầm của người đời.

Có trường hợp sùng bái hơn, người ta còn lặp lại việc tự đóng đinh người lên cây thánh giá vào ngày thứ sáu, ngày Phúc Lành. Xế chiều, linh mục đọc lại bảy lời nói cuối cùng của Chúa trước đám đông giáo dân trong nhà thờ. Buổi tối; mô hình quan tài Chúa được rước quanh khu dân cư, qua các phố phường. Sáng hôm sau, ngày lễ Phục Sinh diễn ra tại nhà thờ. Làm lễ xong, đám rước lại chuẩn bị diễu hành trên đường phố. Thời xưa, hai kiệu gỗ, rước biểu tượng Chúa bị đóng đinh trên cây cây thánh giá và đức mẹ Maria Thương Khó (Mater Dolorasa).

Ngày nay, ở Philippin đã cải tiến hình thức khiêng kiệu bằng hai cỗ xe nhỏ(1). Đám rước đi vòng quanh các nẻo đường, rồi đến một quảng trường nhỏ trong thành phố, nơi đã được coi như Galilea. Ở quảng trường có một sân khấu, đã có sẵn một đội quân nhỏ tuổi, mặc quần áo lễ, giống như những thiên thần tý hon đang múa hát đợi chờ sẵn chào đón đám rước, đưa Chúa và đức mẹ Maria đến. Khi đám rước dừng lại ở sân khấu, những thiên thần tý hon, mở khăn trùm đầu đức mẹ cất đi. Sau ít phút ngưng nghỉ, mọi người làm dấu thánh, miệng lẩm nhẩm lời kinh, rồi tất cả những người lớn nhỏ ở quảng trường lại theo xe, rước Chúa và đức mẹ Maria trở lại nhà thờ. Nhà thờ rung chuông từng hồi dài, giục dã bước chân đám rước.

Ngoài các ngày lễ Công giáo ở Philippin có tính quốc gia kể trên, hầu như tháng nào cũng có những ngày lễ thánh, nhưng đó chỉ là ngày lễ có tính nghi thức bắt buộc theo giáo luật. Các linh mục, cha xứ thực hiện đều đặn với sự tham gia của số ít giáo dân có chức sắc trong giáo xứ.

Ở tất cả các làng bản (barangay) của Philippin đều có lễ hội các thánh đỡ đầu; nhưng chủ yếu cũng chỉ do các cha xứ và một số chức sắc lo liệu. Chỉ có ở thủ đô Mamila, ngày lễ hội Nazarene thuộc quận Quiapo là được tổ chức trọng thể vào tháng 1, có ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa của cả thành phố. Tượng thánh Nuestro Padre’ Senor Nazarene được đặt trong một cỗ xe do các tín đồ Công giáo nam giới (hijo) kéo dọc đường phố. Người đi lễ hội đông như nêm cối. Dân chúng liên tục chen chúc, xô đẩy để được đến gần kiệu thánh. Họ vẩy nước hoa thơm vào tường vào xe kiệu thánh. Thánh đã được tắm nước hoa đến mức ướt đẫm, đổi mầu toàn thân. Những chiếc khăn nhỏ để lau tượng thánh hoặc buộc trang trí trên xe kiệu, bị giáo dân cướp, xé lấy mảnh vải nhỏ để lau khắp người mình cầu mạnh, cầu phúc.

Về những vùng ven sông như thị trấn Gumaca ở Quezon, Naga ở Bicol… lễ hội thánh đỡ đầu đã kết hợp và nâng cấp theo các lễ hội dân gian cổ truyền thành lễ hội tôn giáo. Tượng một vị thánh cụ thể được giáo xứ đặt ở vị trí cao trên bè nổi hoặc con thuyền nhỏ, có trang trí rực rỡ. Giáo dân cử người lôi kéo, đẩy bè hoặc thuyền đi trên mặt nước. Tục té nước của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á được tái hiện làm tượng thánh ướt đẫm, đổi màu. Ở hai bờ sông, dọc theo tuyến đi của bè tượng thánh, dân chúng reo hò, vẫy cành lá xanh chào đón.

Cư dân miền núi Kalibo ở tỉnh Aklan có lễ hội Atiatihan cũng gắn với chúa hài đồng-lúc Chúa Jêsu mới ra đời-nhưng những nghi thức saman giáo cổ xưa còn đọng lại. Đến ngày lễ hội (tháng năm dương lịch) quanh ngôi nhà tụ hội của dân được kết hoa đủ sắc màu. Hàng trăm chiếc mũ lá dừa làm lễ vật dâng thần bản mệnh Isidro Labrador cũng được treo dán kín vách tường phía ngoài. Nam giới đội mũ thần mà lại có hình thánh ở trán; bôi nhọ nồi đầy mặt và cổ, đi theo kiệu thánh vòng vèo trên đường hẹp của bản làng. Họ vừa đi vừa đánh trống và hô vang những nhịp điệu: “Halabira”. Có những phụ nữ sùng tín đến bên kiệu, ôm ghì tượng hài đồng (dân xứ gọi là Santo Nino) vào ngực, chạm trán vào bất cứ vị trí nào trên thân tượng dường như xin chúa ban phúc. (6)

2. Lễ hội Công giáo ở Việt Nam. Văn hóa dân gian Việt Nam vốn đã rất đa dạng ở tất cả các vùng miền. Công giáo được truyền vào Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI và ngay từ buổi đầu tiếp xúc, lễ hội Công giáo đã sớm kết hợp với nghi thức giáo luật với phong tục lễ hội của cư dân bản địa. Lúc sơ giao, mục đích của các linh mục chỉ là sử dụng chính sách dân vận, lôi kéo quần chúng theo đạo mà lựa chiều các lễ hội, đưa nội dung giáo lý, phổ biến kiến thức Công giáo. Khi Công giáo Việt Nam trải qua những chặng đường lịch sử thì lễ hội Công giáo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong lễ hội Việt Nam. Ca dao Việt Nam có bài:

Tháng Giêng ăn tết ở nhà

Tháng hai ngắm đứng, tháng ba ra mùa

Tháng tư tập trống rước hoa

Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng năm

Tháng sáu kiệu ảnh Lái Tim

Tháng bảy chung tiền đi lễ Phú Nhai

Tháng tám đọc ngắm Văn

Trở về tháng chín xem nơi chồng mồ

Tháng mười mua giấy sao tua

Tháng một, tháng Chạp sang mùa ăn chay (7)

Lễ hội Công giáo Việt Nam điển hình nhất là lễ hội đêm Noen (25 tháng 12 dương lịch). Từ trước đêm lễ hội hai ngày, khắp các xứ đạo, họ đạo và nhất là các nhà thờ lớn ở thành phố, giáo dân đã lo tu chỉnh, sắm sửa lễ vật chào đón ngày lễ hội. Cột cờ cao nhất được dựng lên ở sân nhà thờ. Các cờ nhỏ, hoa kết dây trang trí khắp nơi xung quanh nhà thờ. Giáo dân nô nức mau sắm lễ vật làm bánh thánh, trẻ em tưng bừng trong bộ quần áo mới, mũ cano là phẳng…đến nhà thờ xem những buổi tập dượt kèn, trống, não bạt, múa sinh tiền.

Khác với lễ hội Noen ở Philippin, người Công giáo Việt Nam chỉ dựng cây thông Noen ở nhà thờ, không trang trí mang tính phổ biến ở các công sở nhà nước và đường phố. Lễ hội của bộ phận giáo dân ở các vùng có đạo, kể cả xứ toàn tòng thì cũng biểu hiện tính cá biệt giữa các cộng đồng cư dân theo Phật giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Trống hội, kèn tây cứ tự do âm vang, có khi kéo dài suốt đêm Noen hoặc cả ngày đêm 24,25 tự do thoải mái mà không hề có sự ngăn cấm của chính quyền sở tại. Tiếng cầu kinh và hát thánh ca đồng thanh vang ra từ nhà thờ xứ, họ…gợi nên một khung cảnh trầm mặc, âm ỉ giữa chốn làng quê êm ả thanh bình. Song, như Hiến chế và phụng vụ thánh (Sacrosanetum Concilium) đã quy định: “Thánh ca bình dân phải được khéo léo cổ vũ để tín hữu có thể ca vang lên tiếng hát trong những việc đạo đức thánh thiện cũng như chính trong hoạt động phụng vụ, theo những quy tắc và chỉ thị của chữ đỏ” (Điều 118, Chương IV—Thánh nhạc)(8).

Ở một vài miền, nhất là các xứ truyền giáo, có những dân tộc sẵn có một truyền thống âm nhạc riêng có một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Tại những nơi này, phải quý trọng âm nhạc ấy đúng mức và dành cho nó một địa vị thích hợp, trong khi đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào việc phụng tự (Điều 119 Chương IV-Thánh nhạc) (9)

Từ quy định ngày giờ thực hành lễ hội, đến những nội dung giáo lý ít nhiều đã “nghệ thuật hóa” trong đời sống văn hóa xã hội được tinh lọc lại. Các cha xứ, linh mục đã hướng tâm mọi “con chiên” của Chúa ở mỗi miền, đều theo một lề lối thống nhất. Đây cũng chính là nguyên nhân hạn chế sự phát triển đa diện, nhiều chiều của lễ hội Công giáo Việt Nam, mặc dù có một số linh mục truyền giáo đã lưu ý đến sự hòa nhập bản địa từ rất sớm. Linh mục Trần Tam Tỉnh trong Thập giá và lưỡi gươm đã viết: “Ngoại trừ các cụm nhà thành thị, dân chúng sống lẫn lộn. Người Công giáo thường tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sỹ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha sứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được giáo hội chính thức phê chuẩn”. (10)

Lễ hội đón giao thừa trong Tết nguyên đán của người Việt, vốn cổ chỉ là một lễ trọng đón chào năm mới. Sau ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người Việt làm lễ cúng, tiễn Táo Công lên trời trình báo mọi sự việc của từng gia chủ trong năm. Táo Công sẽ ở lại Thiên Đình họp với Ngọc Hoàng trong bảy ngày cuối năm, rồi sẽ trở về trần gian vào đúng lúc giao thừa, lại trông coi một năm mới theo chu kỳ. Cùng với Táo Công, ở một số nơi còn quan niệm có một vị quan hành khiển. Có 12 vị quan hành khiển, mỗi vị đại diện là thần cho một năm theo hệ lịch can chi.

Ở Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á, Công giáo lấy dương lịch làm mốc thời gian cho mọi sinh hoạt xã hội. Năm phụng vụ được tính theo chu kỳ từ 25 tháng 12 dương lịch là bắt đầu một năm mới. Tuy vậy, khi Công giáo hòa nhập với tâm linh người Việt thì Tết nguyên đán đã trở thành lễ hội của giáo dân. ở đây, nghi lễ đón năm mới là theo phong tục của người Việt, nhưng những thành tố cấu thành lễ hội được mở rộng; kết hợp chặt chẽ với các loại nhạc cụ, tụ tập đông người, hình ảnh của thần chủ truyền thống được thay thế là Chúa Jêsu. Bài văn tế Chúa trong lễ đón giao thừa có đoạn:

Xin Chúa thương cách riêng đất nước

Việt Nam con, tổ quốc quang vinh

Toàn dân vui sống an bình

Chung xây đất mẹ, thắm xinh tình người

Cho bốn mùa ngát tươi lúa mạ

Dẹp yên đi sóng cả, chông ba

Đời này no ấm thái hòa

Mai sau hưởng phúc hoan ca thiên đường

Mọi sự chuẩn bị lễ hội đón giao thừa đã chu tất. Trong những giờ phút thiêng liêng của năm cũ sắp hết, năm mới sẽ bắt đầu vào giây phút đầu tiên lúc 0 giờ ngày 1 tháng Giêng. Chuông đổ hồi giục giã. Lúc sau một hồi ba tiếng trống cái rung lên ầm ĩ ở nhà thờ; ban nhạc gồm chiêng, trống, sênh tiền tấu liên khúc ca mừng xuân mới. Đèn nến lung linh, rực rỡ nơi tôn nghiêm chúa ngự. Đoàn tế viên từ 15 người với trang phục chỉnh tề: áo thụng, mũ thánh tiến vào nhà thờ làm lễ tế. Mười hai tế viên, mặc áo mầu xanh, đội khăn xếp, xếp thành hai hàng sau chủ tế và hai bồi tế. Chủ tế và bồi tế để mặc áo màu đỏ, đội mũ cánh chuồn bước đến bên ban thờ Chúa thắp hương nến rồi quỳ phục bái lạy. Các tế viên làm theo răm rắp. Sau mỗi tuần tế, đội giáo nhạc lại tấu phối khí, nhạc cụ đàn, sáo, chiêng, trống và chuông rung. Mỗi tuần tế, chủ tế đọc một bài văn tế có nội dung khác nhau.

Ngoài sân nhà thờ, nhiều giáo dân cũng đến dự lễ đón giao thừa lấy lộc. Ở hầu hết các vùng đồng bằng Bắc Bộ, dường như tục xông nhà vào giờ phút đầu năm là rất thiêng liêng với tất cả cộng đồng. Giáo dân đã thực hành tính ngưỡng của tổ tiên trong lễ hội đón giao thừa. Khoảng nửa giờ sau, mọi người tỏa về nhà mình “xông nhà, xông đất”.

Lễ hội dâng hoa ở các xứ đạo Công giáo Việt Nam được tổ chức khá công phu diễn ra vào cả bốn buổi chủ nhật của tháng năm dương lịch_còn gọi là tháng Đức Bà. Nội dung chính của lễ hội dâng hoa là rước kiệu mẹ Maria và dâng hoa lễ thánh. Đầu giờ chiều, tiếng chuông nhà thờ đổ hồi dài giục dã, đoàn người đi lễ hội đã tề tựu ở sân nhà thờ. Kiệu hoa được nâng lên vai. Đi trước kiệu là một thiếu niên mặc áo thụng, váy trắng và một người cầm nến. Một nhóm người già là nam giới đi ngay sau đó. Kiệu hoa tiếp theo. Sau kiệu hoa là linh mục có hai người giúp việc đi kèm. Hội ca công do nam nữ thanh niên đảm nhiệm vừa đi vừa hát thánh ca hòa nhịp với đội nhạc lễ. Số đông nam nữ thanh niên khác nối tiếp sau đội hát và đội nhac. Hội các bà, hội các ông lũ lượt nề nếp trong trang phục lễ hội. Các giáo dân khác nối dài đám rước kiệu. Đám rước từ thánh đường đi quanh sân nhà thờ, rồi lại về điểm xuất phát. Sau khi dừng kiệu, tượng hoặc ảnh của Maria được đưa vào ban thờ cũ. Lúc này lễ hát múa dâng hoa mới diễn ra. Trống, phách giữ nhịp điều hòa các công đoạn. Mười hai nữ thanh niên được gọi là “con hoa” đồng phục áo dài trắng; múa điệu dâng hoa theo kịch bản của đạo diễn.

Nhiều bài hát dâng hoa được cải biến theo làn điệu dân ca nghi lễ của người Việt. Quan sát động tác múa khi uốn thân xoay người, chuyển thế đứng, nhún chân, quay khuỷu tay, đánh mặt…ta thấy rõ sự xen kẽ hay lấy lại tất cả các điệu múa nghi lễ trong lễ lên đồng, chạy đàn..v.v.

Ở sân nhà thờ, sau lễ dâng hoa là hội kết chữ, kết hình do nam nữ thanh niên mặc đồng phục thể hiện. Có thể nghe nhịp trống điều khiển, một hai nhóm người kết hình mặt trăng, ngôi sao (11). Chữ A và M in là chữ cái lấy từ nguyên gốc Ave Maria. Mọi nghi thức trong lễ hội dâng hoa đều tràn đầy ý nghĩa kinh dâng lên đức Maria lòng thành kính của giáo dân, xin Chúa ban phúc lành, như câu hát:

Tấm lòng xin với hoa dâng

Giãi niềm thảo kính đã từng suy tôn

Chúng con dâng cả xác hồn

(Trích bài hát dâng hoa)

Từ chủ nhật Lễ Lá đến chủ nhất lễ Phục Sinh là khoảng thời gian các giáo dân thể hiện nghi lễ tưởng niệm Chúa Jêsu lâm nạn, bị chết, ba ngày sau thì sống lại.

Trong Tuần Thánh có những ngày lễ trọng. Lễ truyền phép Mình Thánh ngày thứ năm, còn được gọi là bữa tiệc ly, đây cũng gọi là ngày cuối cùng có bữa ăn của chúa Jêsu cùng các môn đệ. Đúng lúc kết thúc bữa ăn cuối cùng ở trần gian ấy, Chúa xác lập bí tích Mình Chúa. Ngày thứ sáu kỷ niệm sự kiện Chúa chịu chết, thứ bảy là lễ Vọng Sinh (chờ Chúa sống lại) và chủ nhật lễ trọng Phục Sinh.

Như vậy, Tuần Thánh trong mùa Giáng Sinh khiến cho tất cả mọi giáo dân đều bị cuốn hút vào không khí lễ hội. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế, mỗi xứ, mỗi họ đạo có thể tổ chức lễ hội theo cách của mình. Xứ đạo Trung Lao (nay thuộc xã Trung Đồng huyện Nam Ninh tỉnh Nam Định) đã từng tổ chức lễ hội Tuần Thánh rất quy mô vào những năm đầu thế kỷ XX.

Diễn lại cái chết của Chúa, chiều ngày thứ sáu, lễ hội Tuần Thánh bắt đầu. Đám rước có hai kiệu vàng, kiệu đi đầu có tượng đức mẹ Maria đứng, cầm khăn trắng nâng ngang tầm ngực, như sắp lau nước mắt. Ngay trước và sau kiệu đức mẹ, là một đội quân đồng phục cổ vũ cho các “chân kiệu” và quan quản, thày tớ cai đang chuyển động. Sau kiệu đức mẹ một đoạn; đến một đội quân, giả như sắp phải `thực thi việc hành hình Chúa. Trang phục binh sĩ, gươm giáo, lá chắn, súng ống…đều lăm lăm sẵn trên tay mà đi trong đám rước. Kiệu Chúa đi sau đội quân này. Sách Kỷ yếu Trung Lao đã miêu tả: “Tượng Chúa to lớn như cỡ người thật, mặt mũi máu me, tay chân gầy ốm, vác cây thập tự đứng trên chiếc kiệu lớn, ngoài có màn phủ, ai coi cũng phải ngậm ngùi thương xót.” (12) Đám rước vòng quanh sân nhà thờ rồi hạ kiệu trước thánh đường, đưa tượng đức mẹ và Chúa vào cung thánh. Tượng Chúa Jêsu nằm trên cây thánh giá được dựng lên trong cung thánh lung linh đèn nến. Rèm che cung thánh khép lại. Phường nhạc lễ nổi lên khúc ca ai oán, trầm mặc. Con chiên áo thâm, khăn trắng lầm rầm cầu kinh làm lễ Ngắm trước bàn thờ. Cuộc lễ kéo dài đến 12 giờ đêm. Bấy giờ có ba vị tông đồ lấy thang, mang búa, trèo lên tháo xác Chúa xuống, đặt giữa ban thờ cho đức mẹ Maria ngắm con”. Lời kinh cầu vang lên những đoạn đời Chúa.

Lúc sau, cuộc lễ táng tượng, xác được cử hành như thật. Mọi thành viên lớn, bé, trẻ, giá đều mặc trang phục mầu đen, đội khăn trắng, lắng nghe những khúc nhạc trống…đưa Chúa đi chôn. Cỗ đòn khiêng quan tài Chúa được trang trí đẹp. Bốn góc có bốn thiếu nhi đóng vai thiên thần, “chập chờn đôi cánh”.

Cuộc rước xác Chúa, đi quanh đường làng. Đi đầu đoàn là những người vác cờ tang, tiếp đến đội quân dữ, lính tráng, đại diện các hội đoàn, đến ban nhạc. Đòn khiêng quan tài Chúa ở đoạn sau ban nhạc, có một số tông đồ, thầy cả…đều mặc áo trắng, khăn tang. Gọi là cỗ đòn khiêng nhưng thực tế vẫn là bộ kiệu rước rực rỡ sắc mầu. Tiếp sau đòn khiêng quan tài Chúa là một đoàn thiếu nữ mặc đồng phục quần áo trắng, miệng đọc kinh tay vần tràng hạt. Sau đoàn thiếu nữ là đến kiệu thánh đức mẹ Maria. Trên kiệu đức mẹ còn có thánh Gioan và thánh nữ Madalenna, đã vì Chúa mà trở lại hoàn lương. Đoàn người đi sau cũng là các giáo dân bản xứ.

Đám rước đến chân núi giả ở gần hồ nước gần nhà thờ thì nghỉ dừng lại nghỉ. Các tín đồ đến bên đòn táng, đến bên kiệu đức mẹ, ngắm thánh, đọc kinh rồi chuẩn bị ra về. Các vị chức sắc, người được phân công phục vụ nhà thờ đưa kiệu rước, tượng Chúa, tượng đức mẹ, tượng thánh vào cung thờ.

Với tất cả các hình thức nghiêm nhặt, chặt chẽ; lễ hội Tuần Thánh diễn ra từ chiều đến khoảng quá nửa đêm ở Nam Định, trước năm 1945 là dấu ấn khó phai mà trong đời sống văn hóa Công giáo Việt Nam. Song, có lẽ vì cuộc sống khó khăn, chiến tranh loạn lạc nên lễ hội Tuần Thánh ở Trung Lao, nay cũng đơn giản hơn nhiều.

Mùa Giáng Sinh và Mùa Chay nối liền nhau trong tháng 12 và tháng 1 dương lịch, trùng với dịp chuẩn bị đón tết nguyên đán và hội xuân của người Việt; nên lễ hội Công giáo người Việt Nam đã dung nạp khá nhiều yếu tố văn hóa bản địa. Còn các dịp lễ thánh khác quanh năm, trong mùa phụng vụ Công giáo không cấu thành lễ hội.

Đối với các nước Đông Nam Á khác, do số lượng giáo dân hạn chế, các nghi thức lễ chỉ diễn ra trong khuôn viên nhà thờ và mang tính biệt lập là ngày lễ thánh, nên hầu như không có lễ hội.

---------------------

Chú thích

(1)(2)(3)(4) Kinh thánh,N.x.b TP Hồ Chí Minh,1988.

(5) Những ngày lễ Công giáo-N.x.b TP Hồ Chí Minh,1995.

(6) Philippines, Lê Huy Hòa biên dịch—N.x.b Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2002.

(7) Nguyễn Hồng Dương, Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam, N.x.b Khoa học xã hội, H, 2001.

(8)(9) Thánh công đồng chung Vaticano II, Phân khoa thần học giáo hoàng học viện thánh Pio X, Đà Lạt, 1972.

(10) Biểu tượng mặt trăng, ngôi sao biển là đức mẹ Maria. Hình mỏ neo của giáo dân miền biển là biểu thị niềm tin chắc chắn vào đức mẹ.

(11) Kỷ yếu trung lao, N.x.b TP Hồ Chí Minh, 1996.

(12) Hoàng Xuân Hãn, Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học Xã hội, Paris 1982.

Trương Sỹ Hùng

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/le-hoi-cong-giao-o-philippin-va-viet-nam-64902