Linh hoạt, thận trọng điều hành chính sách tiền tệ

Năm 2019 đang dần qua đi với tình hình khu vực và quốc tế có những diễn biến không thuận. Thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế nhiều biến động; các ngân hàng trung ương lớn có xu hướng đảo ngược chính sách tiền tệ (CSTT). Trong bối cảnh này, điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục giữ được sự chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng HDBank. Ảnh: XUÂN TOÀN

Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng HDBank. Ảnh: XUÂN TOÀN

Năm 2019 đang dần qua đi với tình hình khu vực và quốc tế có những diễn biến không thuận. Thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế nhiều biến động; các ngân hàng trung ương lớn có xu hướng đảo ngược chính sách tiền tệ (CSTT). Trong bối cảnh này, điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục giữ được sự chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Duy trì ổn định thị trường

Bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, NHNN đã điều hành đồng bộ và linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu. Theo đó, NHNN đã điều hành nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc chào mua, chào bán tín phiếu để điều tiết lượng tiền trong nền kinh tế, duy trì sự ổn định trên thị trường tiền tệ. Đồng thời, NHNN cũng điều hành đồng bộ các công cụ CSTT khác như giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung đối với các tổ chức tín dụng (TCTD); thực hiện tái cấp vốn đối với các TCTD để cho vay theo các chương trình đã được Chính phủ phê duyệt;… góp phần kiểm soát tiền tệ, không tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất thị trường. CSTT cũng đã được phối hợp chặt chẽ với CSTK trong việc điều hòa vốn khả dụng của các TCTD; thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành về điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát, làm cơ sở để tính toán liều lượng, mức độ điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý phù hợp mục tiêu kiểm soát lạm phát chung, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ, giảm chi phí huy động vốn cho ngân sách nhà nước với kỳ hạn được kéo dài. Kết quả, lạm phát bình quân và lạm phát cơ bản được duy trì tương đối ổn định ở mức thấp, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý. Đây cũng đánh dấu thành công nổi bật trong điều hành CSTT của NHNN tiếp tục góp phần quan trọng trong việc điều hành lạm phát do Chính phủ và Quốc hội giao.

Về lãi suất điều hành, trong bối cảnh lãi suất quốc tế gia tăng, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp CSTT nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, từ ngày 16-9, NHNN điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành để tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ nền kinh tế và thanh khoản của hệ thống TCTD. Sau động thái hạ lãi suất điều hành, sang giữa tháng 11-2019, NHNN đã yêu cầu các TCTD giảm trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 1 tháng xuống còn 0,8%/năm, trần lãi suất huy động kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng xuống còn 5%/năm; hạ trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên xuống còn 6%/năm. Động thái này được đánh giá là bước đi hợp lý, phù hợp xu hướng chung mà ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đang thực hiện nhằm giữ cho nền kinh tế duy trì được đà tăng trưởng. Nhờ vậy, mặt bằng lãi suất về cơ bản tiếp tục duy trì ổn định. Hiện, mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,2-0,8%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3-5,0%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng; 5,5-7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng; 6,6-7,5%/năm đối với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11% đối với trung và dài hạn.

Cùng với công cụ lãi suất, việc điều hành tín dụng tăng trưởng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở mức tăng trưởng 13,89% của tín dụng cuối năm 2018, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát năm 2019, NHNN định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là 14%, có điều chỉnh linh hoạt phù hợp diễn biến, tình hình thực tế nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng đã và đang hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, trong đó tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. Hiện nay, tổng dư nợ tín dụng ngân hàng của cả nước là khoảng 8 triệu tỷ đồng; riêng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là 2 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25%.

Đặc biệt, tỷ giá có thể được coi là điểm sáng nhất trong bức tranh hoạt động ngân hàng từ đầu năm đến nay. Trong năm 2019, NHNN đã điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu điều hành CSTT; kết hợp điều tiết thanh khoản, lãi suất VND hợp lý và chủ động truyền thông để ổn định thị trường, mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước khi có điều kiện thuận lợi. Tiền VND tiếp tục nằm trong nhóm những đồng tiền ổn định nhất khu vực bất chấp những bất ổn địa chính trị và các sự kiện kinh tế trong và ngoài nước.

Công tác tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu cũng tiếp tục được triển khai quyết liệt. Đến nay, NHNN đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt phương án hoặc có văn bản giao hội đồng quản trị/hội đồng thành viên rà soát, hoàn thiện, chịu trách nhiệm phê duyệt phương án cơ cấu lại của hầu hết các TCTD; tiếp tục hoàn thiện các chính sách, cơ chế để hoạt động của các ngân hàng theo hướng thận trọng hơn, phù hợp với các thông lệ quốc tế để quản trị, quản lý rủi ro ngày càng tốt hơn. Basel II được tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Về mục tiêu có ít nhất 12-15 ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên), đến nay 18 NHTM đã được NHNN phê duyệt thực hiện Thông tư số 41/2016/TT-NHNN trước thời hạn hiệu lực. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm đáng kể và được kiểm soát ở mức thấp, trong khi các quy định trong hoạt động ngân hàng đã được tăng cường, qua đó giúp tăng cường niềm tin của công chúng và ổn định hệ thống tài chính ngân hàng.

Kịp thời chống đỡ các “cú sốc” bên ngoài

Năm 2019 sắp qua đi với nhiều thành công trong điều hành CSTT và được các tổ chức quốc tế, trong nước đánh giá cao. Năm 2020 đang đến với cơ hội mới, thách thức mới. Dù tình hình quốc tế sẽ có những diễn biến thuận lợi hay khó khăn hơn, thì Chính phủ Việt Nam vẫn luôn kiên định phải ưu tiên duy trì kinh tế vĩ mô ổn định, đẩy mạnh cải cách các lĩnh vực quan trọng và đổi mới mô hình tăng trưởng. Năm 2020 cũng là năm cuối trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020, do đó, cùng với các bộ, ngành, NHNN sẽ phải tiếp tục nỗ lực rất nhiều để đạt được các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn này, đồng thời chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Trên tinh thần đó, trong nhiệm vụ và chức năng của mình, NHNN cần tiếp tục điều hành CSTT một cách thận trọng, linh hoạt và phối hợp tốt với các chính sách vĩ mô khác; giám sát tốt hơn hệ thống ngân hàng để duy trì ổn định tài chính tiền tệ và góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.

CSTT cần bám sát diễn biến thị trường tài chính tiền tệ và cả địa chính trị trên thế giới để có kịch bản phù hợp. Cần xây dựng và vận hành có hiệu quả các công cụ điều hành CSTT, các khuôn khổ chính sách quản lý thích hợp bảo đảm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam chống đỡ kịp thời với các cú sốc kinh tế, tài chính quốc tế. Thời gian qua, việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của NHTM nhà nước nhằm bảo đảm vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ đang gặp nhiều khó khăn. Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTM nhà nước là khá lớn để bảo đảm đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế. Do đó, vấn đề tăng vốn cho các NHTM nhà nước cần phải được khẩn trương xử lý để tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng này, bảo đảm thực hiện đúng các quy định về tỷ lệ an toàn, đáp ứng đủ mức vốn theo chuẩn mực vốn Basel II.

Nợ xấu tuy đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD. Nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các TCTD yếu kém, tuy nhiên việc xử lý còn gặp nhiều khó khăn… Đây tiếp tục là một vấn đề cần được cơ quan quản lý cũng như bản thân các TCTD lưu ý trong thời gian tới.

Liên quan vấn đề tỷ giá, với những kết quả đã đạt được trong năm 2019 thì bước sang năm 2020, chúng ta có cơ sở để kỳ vọng tỷ giá tiếp tục được điều hành theo cơ chế linh hoạt. Đáng chú ý, với việc dự trữ ngoại hối cao kỷ lục (khoảng 73 tỷ USD), NHNN có đủ công cụ và nguồn lực để điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, đáp ứng cung - cầu thị trường. Tuy nhiên, vẫn có những thách thức cần quan sát và theo dõi như những bất ổn khi kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chậm lại, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và Brexit đều chưa đến hồi kết, 2020 là năm bầu cử tổng thống Mỹ,… Trong khi đó, việc Việt Nam gần đây bị đưa vào danh sách theo dõi thao túng tỷ giá của Mỹ cũng là một tín hiệu đáng lo ngại. Trong bối cảnh tình hình địa chính trị trên thế giới liên tục vận động, xu hướng tỷ giá sẽ tiếp tục là biến số khó lường. Điều này đòi hỏi NHNN cần tiếp tục phối hợp với cơ quan điều hành chính sách điều hành thị trường theo hướng linh hoạt, chủ động để tránh tạo ra những cú sốc về tỷ giá và lãi suất. Tăng trưởng tín dụng cũng cần tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của nền kinh tế.

Cuối cùng, cuộc cách mạng số hay cách mạng công nghiệp 4.0 đang có những tác động mạnh mẽ đến tất cả ngành nghề, lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có ngành ngân hàng. Trước những cơ hội và cả thách thức từ cuộc cách mạng số, đòi hỏi ngành ngân hàng cần tiếp tục triển khai tích cực Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng và bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng; triển khai thí điểm các mô hình thanh toán mới, áp dụng công nghệ mới trong hoạt động thanh toán;… để thích ứng với yêu cầu mới và nắm bắt kịp thời những cơ hội mới.

HỒNG ANH

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/42691702-linh-ho%E1%BA%A1t-than-trong-dieu-h%C3%A0nh-chinh-sach-tien-te.html