Loài cây biến đá thành vàng

Thời tiết thất thường cuối tháng 8 khiến những trái na lúc lỉu ở thủ phủ cây na của Lạng Sơn chín rất nhanh, không thu hoạch nhanh quả sẽ tụt cuống rơi xuống đất. Từ một loại quả trong truyền thuyết, na trở thành đặc sản của xứ Lạng làm thay da đổi thịt cả một vùng đất.

Đồng bào các dân tộc huyện Chi Lăng tự hào về sản vật quê mình. Ảnh: Duy Chiến

Từ quả na trong truyền thuyết

Gia đình tôi đến định cư tại phố núi Đồng Mỏ (huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn) vào giữa thập kỷ 40 của thế kỷ trước. Bố mẹ tôi tìm đến một mảnh đất khô cằn ép vào dãy núi Kai Kinh để mưu sinh, trồng hái. Ban đầu là trồng rau ăn hàng ngày, sau thì trồng cây mận, cây chuối đến khi có quả thì “đối lưu” với hàng xóm lấy bơ gạo, túi ngô… Ngày đó, dân cư thưa thớt, toàn phố chỉ có chừng vài chục nóc nhà, sống rải rác chìm khuất giữa bạt ngàn cây rừng, đồi núi.

Nhà tôi có khu vườn rộng gần một ha. Một hôm, bố tôi gọi mọi người đến một hốc đá rồi reo lên bảo: “Hình như đây là cây na”. Nói rồi, bố sai chúng tôi lấy chậu nước ra tưới, nhen lên hy vọng sẽ có quả ngọt. Thời gian trôi, cây cao lớn trổ những bông hoa na ngát hương rồi đậu quả đầu mùa. Quả na căng tròn, đều các múi trắng hồng và năm đó, cây na cho hơn chục quả. Bố chia cho mỗi người một quả và dặn khi ăn phải nhè hạt để làm giống. Tôi vẫn còn nhớ truyền thuyết về cây na bố tôi kể cho nghe ngày còn nhỏ. Truyện rằng, khi phố núi còn chưa có tên, một hôm trời quang mây tạnh, những người dân ở mảnh đất Chi Lăng bỗng thấy một con chim lạ có bộ lông đen tuyền từ phương Nam bay tới. Nó liệng từ đỉnh núi Kai Kinh xuống tìm đến hốc đá để nhả những hạt đen nhánh. Sau tiếng hót lanh lảnh, chim vụt bay vào đám mây trắng trên trời. Từ những hốc đá bỗng bật lên mầm mà sau này, người ta đặt tên là cây na…”.

Na Chi Lăng xác lập kỷ lục được công nhận vào Top 50 đặc sản trái cây nổi tiếng Việt Nam theo Bộ tiêu chí công bố giá trị đặc sản Việt Nam.

Cho đến giờ không ai có thể đoán chắc cây na Lạng Sơn xuất xứ từ đâu và có mặt tại phố núi quê tôi từ bao giờ. Nhưng gia đình tôi là một trong ba nhà có na đầu tiên ở Đồng Mỏ. Ngày đấy, toàn bộ quả đều là na bở. Các gia đình cho hạt lẫn nhau để trồng, phát triển thành vườn. Ngày ấy, thời bao cấp, mọi người trồng na để ăn và cho lẫn nhau vì loại quả này to, tròn, múi dày, ăn ngọt dịu, thơm, bổ dưỡng, có thể ăn thay cơm…

Nhớ lại những ngày na chín rộ, chúng tôi được đánh thức dậy từ khoảng 4 giờ sáng. Mẹ rang bát cơm với xì dầu thơm lựng mùi mỡ còn bố chuẩn bị sẵn làn, sào có móc, túi vải… Chúng tôi đeo, cầm dụng cụ hái na rồi ngược núi lên vườn. Đêm tháng 8 mưa to, nước chảy thành dòng, phả hơi lạnh từ nước và khí núi làm chúng tôi co người.

Gian nan lấy na trên núi. Ảnh: Duy Chiến

Chúng tôi chia nhau ra để tìm quả chín. Ngày ấy, na mọc tự nhiên nên thân cao chót vót khoảng gần ba, bốn mét. Tôi trèo lên cây, hái liền tay những quả chín, quả ương đẹp cho vào túi vải, khi đầy thì tụt xuống gốc cho na vào làn rồi lại leo tiếp.

Mỗi ngày, chúng tôi hái na 2 lần sáng và chiều. Buổi trưa thì tranh thủ đi mót na vì quả chín rất nhanh, nếu không kịp hái thì chim sẽ mổ ăn mất, mà loại chim rừng Đồng Mỏ rất tinh, nó chỉ nhắm đến những quả to bự, hồng đẹp. Ăn tối xong, tôi và bố lại chuẩn bị đèn pin, chiếc gậy rồi xuyên qua bóng đêm trở lại khu vườn để trông na, canh trộm...

“Na Chi Lăng có hương vị riêng bởi thổ nhưỡng, khí hậu và tinh túy từ những dải đá vôi của dãy núi Kai Kinh. Nó thơm, ngọt thanh, cùi dày, mắt to sáng đẹp, khiến du khách ăn một lần rồi nhớ mãi”.

Vi Nông Trường, Chủ tịch UBND huyện Chi Lăng

Đến cuộc sống đổi thay nhờ na

Đầu những năm thập kỷ 80, quả na đã trở thành hàng hóa. Đồng bào các dân tộc huyện Chi Lăng học hỏi nhau để phát triển loài quả đặc sản này. Từ chỗ chỉ có vài ba nhà có na bở ở thị trấn Đồng Mỏ thì nay cây đã trải dài khắp núi Kai Kinh, mỏm đồi chạy dọc quốc lộ 1A. Vào khoảng năm 1986, một số hộ dân từ Hà Tây lên khai hoang vùng kinh tế mới đã mang giống na dai lên trồng ở khu vực Đồng Bành, xã Chi Lăng để rồi nơi đây trở thành “thủ phủ” na nổi tiếng trong cả nước. Người dân đã biết cắt ngọn cây, tỉa cành và thụ phấn cho hoa để giúp cho việc thu hoạch không phải leo trèo, làm cho quả to đều và tạo na rải vụ. Mỗi năm, người dân Chi Lăng lại đúc rút kinh nghiệm, áp dụng khoa học kỹ thuật để sản phẩm na đa dạng, phong phú. Đến nay, Chi Lăng có tới 6 loại: na bở, na dai, na Thái Lan, na Đài Loan, na nữ hoàng, na sầu riêng.

Chủ tịch UBND huyện Chi Lăng - Vi Nông Trường cho biết: Chi Lăng có 70% diện tích đất tự nhiên là núi đá vôi hiểm trở và đồi đất cằn cỗi. Vậy mà, người dân đã nỗ lực canh tác và phát triển thành công các vùng trồng na với tổng diện tích hơn 2.500 ha, sản lượng đạt trên 22.000 tấn quả, thu về trên 700 tỷ đồng/năm. Nhờ đó, nhiều hộ dân đã thu nhập khá từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Nhiều thôn bản từ nghèo khó nay đã có 60-70% hộ giàu.

“Có thể nói, bằng ý chí, nghị lực, sự sáng tạo cần cù chịu khó và khát vọng của mình, người dân Chi Lăng đã biến khó khăn thách thức thành cơ hội, bắt vị ngọt của trái na tuôn ra từ những vách đá trùng điệp thành vàng, thành bạc”, Chủ tịch huyện Vi Nông Trường chia sẻ.

Chợ na. Ảnh: Duy Chiến

Tôi tranh thủ lên vườn nhà. Năm nay, na được giá cao. Nhất là loại na bở truyền thống được người tiêu dùng ưa chuộng, giá cao gấp đôi na dai, ví như quả to đẹp lại cận rằm có giá 120 nghìn đồng/kg mà còn “cháy hàng”. Anh bạn đồng nghiệp cùng tôi ra chợ Đồng Mỏ dưới chân Đèo Bén để lùng na, mãi mới được 5kg. Theo hướng dẫn của người bán hàng, anh chuyển tiền qua mã quét QR, chứ không phải dùng từng xấp tiền lẻ, tiền xu như thời niên thiếu của tôi…

Nguyễn Duy Chiến

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/loai-cay-bien-da-thanh-vang-post1565013.tpo