Mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Tại Điều 9 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) có quy định: Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định. Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có quy định 'Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể;... không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định' (Điều 20). Nguyên tắc hiến định này đã được cụ thể hóa tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như BLDS, BLTTHS...
Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cụ thể về các trường hợp giữ người, bắt người bao gồm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; và bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ (Điều 110, 111, 112, 113 và 503). BLTTHS cũng đã quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị bắt (lấy lời khai; trách nhiệm của cơ quan đã ra lệnh truy nã, ra quyết định tạm giữ hoặc lệnh tạm giam; lập biên bản; tạm giữ đồ vật, tài liệu; thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người) (các Điều 114 và 116).
Về tạm giữ, BLTTHS quy định việc tạm giữ được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Người bị tạm giữ được giải thích quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày, trường hợp cần thiết, có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày và trong trường hợp đặc biệt, có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn (Điều 117 và 118).
Về tạm giam, BLTTHS quy định (Điều 119): Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng; Đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với đối tượng này; Đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 2 năm, tạm giam có thể áp dụng đối với đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
Việc tạm giữ, tạm giam đối với nghi phạm khủng bố cũng được áp dụng như đối với các tội phạm khác theo quy định của pháp luật. Trong mọi trường hợp bắt, giữ người, cơ quan bắt phải thông báo cho gia đình, người thân, cơ quan, đơn vị của người bị bắt.
Đối với bị can nếu bị bệnh về tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo mà có kết luận giám định tư pháp thì có thể tạm đình chỉ điều tra (Điều 229 BLTTHS). Tại Việt Nam không có người bị bệnh tâm thần bị tạm giam trong BV tâm thần. Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự thì tùy từng giai đoạn tố tụng, CQĐT, VKS, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Căn cứ kết luận giám định pháp y tâm thần, VKS quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Chương XXXIII BLTTHS.
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Luật xử lý vi phạm hành chính (LXLVPHC) đã quy định các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính như tạm giữ người theo thủ tục hành chính, khám người theo thủ tục hành chính, quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất, trong đó quy định cụ thể về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp này.
Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. LXLVPHC quy định Tòa án là cơ quan xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trừ biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Chủ tịch UBND cấp xã quyết định áp dụng. Các quy định tại Nghị định 31-CP của Chính phủ ngày 14-4-1997 ban hành Quy chế quản chế hành chính và Điều 71 BLTTHS (1989, sửa đổi, bổ sung năm 2000) đã hết hiệu lực thi hành.
Một cải cách lớn của LXLVPHC nhìn từ góc độ quyền con người là việc đảm bảo cho các đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, người đại diện của họ được tham gia vào quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính và được thông báo khi hồ sơ lập đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoàn thành để đọc và ghi chép các nội dung cần thiết (Điều 97, 99, 101 và 103). Các quy định này nhằm bảo đảm một cách tối ưu nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Người nghiện ma túy được lựa chọn hình thức cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật. Đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định thì sẽ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi có quyết định của TAND cấp huyện (Điều 96 và 105 LXLVPHC).
Việt Nam không có nơi giam giữ người tị nạn và trên thực tế chưa có trường hợp nào xin tị nạn tại Việt Nam. Đối với các trường hợp người nước ngoài nhập cảnh trái phép, các cơ quan chức năng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý hành chính và yêu cầu xuất cảnh khỏi Việt Nam. Những người này không bị giam giữ, tra tấn hay đối xử hà khắc.
Điểm tiến bộ của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 là đã rút ngắn thời hạn tạm giam theo hướng: Trong giai đoạn điều tra, đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, chỉ cho phép gia hạn một lần thay vì gia hạn hai lần; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần.