Một số vướng mắc khi đăng ký sang tên, di chuyển xe

Khi làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe, ngoài những quy định chung sẽ phát sinh nhiều trường hợp vướng mắc như thiếu hóa đơn, xe Việt kiều hồi hương… Các vấn đề trên được hướng dẫn giải quyết tại Thông tư 15/2014/TT-BCA.

1. Khi sang tên, di chuyển xe, trong hồ sơ xe đăng ký từ 31-12-2005 trở về trước, nếu thiếu hóa đơn chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng không liên tục thì hồ sơ được coi là hợp lệ theo quy định của Bộ Tài chính.

2. Xe đã làm thủ tục sang tên, di chuyển sang địa phương khác nhưng chủ xe chưa đăng ký, lại bán tiếp cho chủ xe mới, nếu thủ tục mua bán và lệ phí trước bạ đúng quy định thì tiếp nhận giải quyết đăng ký và gửi thông báo cho địa phương di chuyển xe biết để điều chỉnh sổ đăng ký xe.

3. Xe tạm nhập; xe của dự án chưa hết hạn, chuyển nhượng tại Việt Nam; xe là quà biếu, cho, tặng.

a) Chủ xe làm thủ tục thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe tại cơ quan đăng ký xe, sau đó đến cơ quan hải quan để làm thủ tục nhập khẩu theo quy định và nộp lại hồ sơ nhập khẩu cho cơ quan đăng ký xe để làm thủ tục sang tên, di chuyển xe.

b) Trường hợp xe chưa làm thủ tục thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe nhưng đã được cơ quan hải quan truy thu thuế nhập khẩu hoặc cơ quan chức năng của Bộ Tài chính trả lời bằng văn bản không phải truy thu thuế thì được sang tên, di chuyển và lưu văn bản vào hồ sơ xe.

4. Xe nhập khẩu được miễn thuế đã sử dụng tại Việt Nam mà có trị giá tính thuế nhập khẩu bằng 0% theo quy định của Bộ Tài chính; xe của Việt kiều hồi hương đã về đến cảng Việt Nam trước ngày 1-4-2014 thì được chuyển nhượng, sang tên, di chuyển theo quy định tại thông tư này.

Xe của Việt kiều hồi hương đã về đến cảng Việt Nam từ ngày 1-4-2014 thì Việt kiều đó phải đăng ký xe rồi mới được chuyển nhượng; khi chuyển nhượng xe phải có chứng từ truy thu thuế theo quy định của Bộ Tài chính thì được sang tên, di chuyển theo quy định tại thông tư này.

5. Xe đã đăng ký (đứng tên cả hai vợ chồng hoặc chỉ đứng tên một người) mà người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe đã chết, mất tích (có giấy chứng tử hoặc tòa án tuyên bố mất tích) nay có nhu cầu sang tên cho vợ hoặc chồng hoặc sang tên, di chuyển cho người khác, nếu không có tranh chấp thì giải quyết đăng ký.

6. Xe mô tô nhập khẩu trái phép, đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho nộp thuế công thương nghiệp, đã đăng ký từ ngày 31-12-1995 trở về trước thì được giải quyết sang tên, di chuyển hoặc đổi biển số xe.

7. Xe đã đăng ký, nay phát hiện giấy chứng nhận nguồn gốc nhập khẩu (giấy hải quan) là giả mạo thì chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu cơ quan điều tra có văn bản kết luận không phải là xe bị trộm cắp, chiếm đoạt trái phép thì cơ quan đăng ký xe chuyển giao cho Cục Hải quan quản lý địa bàn tỉnh, thành phố đó để truy thu thuế, sau khi có chứng từ thu thuế thì giải quyết đăng ký.

8. Xe mô tô đăng ký từ ngày 31-12-1995 trở về trước có đóng dấu “không bán, đổi, cho, tặng” trên giấy chứng nhận đăng ký xe, nay không có tranh chấp, khiếu kiện thì được giải quyết sang tên, di chuyển hoặc đổi biển số xe.

Đối với xe mô tô hai bánh nhập khẩu trái phép nhưng đã được cơ quan hải quan truy thu thuế và đã đăng ký thì được giải quyết sang tên, di chuyển hoặc đổi biển số xe.

9. Xe cải tạo đã đăng từ ngày 4-6-1996 trở về trước, trong hồ sơ thiếu biên bản kiểm nghiệm kỹ thuật theo quy định của Thông tư liên bộ số 223/TT/LB ngày 7-12-1979 của Bộ GTVT và Bộ Nội vụ thì được giải quyết sang tên, di chuyển hoặc đổi biển số xe.

10. Xe lắp ráp tại Việt Nam đã đăng ký từ ngày 19-2-1998 trở về trước, nếu có bản sao giấy chứng nhận sản phẩm đầu tiên hoặc bản sao biên bản nghiệm thu của hội đồng nghiệm thu theo quy định của Bộ GTVT, thì được giải quyết sang tên, di chuyển hoặc đổi biển số xe.

11. Hồ sơ xe đã đăng ký đúng quy định nhưng do sơ suất, thiếu chữ ký của lãnh đạo phòng, đội, cán bộ đăng ký xe hoặc chưa đóng dấu trên giấy khai đăng ký xe hoặc giấy khai sang tên, di chuyển xe hoặc giấy chứng nhận đăng ký xe, chứng từ nhập khẩu có sai sót về địa chỉ, thiếu hoặc nhầm một số ký tự của số máy, số khung so với thực tế của xe hoặc thiếu bản sao biên lai thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với xe quy định phải có) hoặc hồ sơ thiếu hóa đơn nối, thiếu bản chụp giấy phép lái xe, biên lai lệ phí đăng ký, thiếu thủ tục cải tạo thùng xe nhưng đã được ngành giao thông cấp giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì đề xuất cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt (xe đăng ký ở Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt) hoặc trưởng Phòng Cảnh sát giao thông, trưởng công an cấp huyện (xe đăng ký ở địa phương) cho tiếp nhận giải quyết đăng ký.

Trường hợp xe ô tô, xe mô tô đã được giải quyết đăng ký trước ngày 31-12-1995, nay chủ xe làm thủ tục sang tên hoặc sang tên, di chuyển, đổi hoặc cấp lại giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe, trong hồ sơ gốc thiếu thủ tục nhưng không xảy ra tranh chấp, khiếu kiện gì, thì đề xuất cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt (xe đăng ký ở Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt) hoặc giám đốc công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (xe đăng ký ở địa phương) cho tiếp nhận giải quyết đăng ký.

12. Đối với ô tô điện, xe máy điện đã sử dụng trước ngày 1-7-2009 không có chứng từ nguồn gốc hoặc chứng từ chuyển nhượng không bảo đảm theo quy định, nếu chủ xe có cam kết (có xác nhận của chính quyền địa phương) thì được giải quyết đăng ký, cấp biển số xe.

13. Xe đã đăng ký là xe ô tô sơmi rơmoóc nay sang tên, di chuyển hoặc xin tách hồ sơ thành: Xe ô tô đầu kéo; rơmoóc; sơmi rơmoóc thì hồ sơ gốc và biển số của xe ô tô sơmi rơmoóc dùng đăng ký cho ô tô đầu kéo; bản sao hồ sơ gốc của xe ô tô sơmi rơmoóc có xác nhận của Phòng Cảnh sát giao thông dùng cho đăng ký rơmoóc, sơmi rơmoóc.

Lê Huy

Nguồn PLO: http://plo.vn/xe-lai/tu-van-luat/mot-so-vuong-mac-khi-dang-ky-sang-ten-di-chuyen-xe-674200.html