Ngăn chặn 'lỗ hổng' quản lý gây nuôi thương mại động vật hoang dã

Mặc dù Việt Nam đã có đầy đủ hành lang pháp lý để xử lý tội phạm về động vật hoang dã (ĐVHD), song thực tế vẫn còn đó những kẽ hở khiến cho các đối tượng lợi dụng nhằm thu lợi bất chính từ việc nhập lậu và hợp pháp hóa động vật hoang dã có nguồn gốc bất hợp pháp...

Việt Nam là điểm đến hàng đầu của tội phạm về ĐVHD

Phát biểu tại tọa đàm Giải pháp quản lý hoạt động thương mại động vật hoang dã tại Việt Nam do Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) tổ chức sáng ngày 13.9, Giám đốc Văn phòng Cơ quan Phòng chống ma túy và thực thi pháp luật quốc tế (INL), Đại sứ Quán Mỹ tại Việt Nam Thomas Lyons cho biết: Trên thế giới, ước tính tội phạm xuyên quốc gia về môi trường gây thiệt hại từ 70 tỷ đến 200 tỷ đô la một năm với mạng lưới tội phạm chính trải dài khắp châu Phi, châu Á và châu Mỹ. Ngoài tác động tàn phá của nó đối với hệ sinh thái và động vật, tội phạm về động vật hoang dã còn là mối đe dọa trực tiếp đối với nền pháp quyền và trật tự quốc gia. Các tội phạm này tạo tiền đề cho các loại tội phạm khác như tham nhũng, rửa tiền, buôn lậu quốc tế và thương mại bất hợp pháp.

Toàn cảnh tọa đàm

Toàn cảnh tọa đàm

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói chung và INL nói riêng đã và đang nỗ lực ở cả Việt Nam và trên thế giới, để nâng cao năng lực và hợp tác với cơ quan thực thi pháp luật, thẩm phán, kiểm sát viên, cán bộ hải quan và các lực lượng chức năng khác nhằm ngăn chặn hoạt động buôn bán động vật hoang dã trái phép.

Tại Việt Nam, thực tế thời gian qua đã thực hiện một số giải pháp quan trọng để xử lý nạn buôn bán động vật hoang dã. Việt Nam đã nâng mức hình phạt đối với tội phạm về động vật hoang dã. Theo đó, đối tượng buôn bán trái phép động vật hoang dã có thể bị phạt tù đến 15 năm và phạt tiền lên đến 15 tỷ đồng. Các hình phạt cao và các công cụ pháp lý đã có đủ. Tuy nhiên, thực tế Việt Nam hiện là điểm đến hàng đầu cho các tội phạm về sừng tê giác và các sản phẩm, bộ phận của hổ, ngà voi và vẩy tê tê... Do đó, giải pháp lâu dài tốt nhất để đối phó với hoạt động này là thắt chặt quản lý nuôi ĐVHD và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về ĐVHD, làm sao để bảo đảm những chế tài nghiêm khắc này được thực thi bởi những nỗ lực và quyết tâm của các cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh ngăn chặn tội phạm về động vật hoang dã và đưa những đối tượng buôn bán động vật hoang dã xuyên quốc gia này ra xét xử, ông Thomas Lyons nhìn nhận.

Ông Thomas Lyons phát biểu tại tọa đàm

Cần ban hành danh mục ĐVHD được phép nuôi thương mại

Trao đổi với báo chí,Phó giám đốc Trung tâm ENV thông tin Bùi Thị Hà Việt Nam hiện đang có khoảng 9.000 cơ sở nuôi thương mại động vật hoang dã đã được cấp phép và ước tính còn nhiều cơ sở hoạt động tự phát hoặc đang trong quá trình chờ cấp phép. Cơ chế quản lý lỏng lẻo và thiếu sự giám sát hiệu quả đối với hoạt động nuôi thương mại động vật hoang dã đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng nhằm thu lợi bất chính từ việc nhập lậu và hợp pháp hóa động vật hoang dã có nguồn gốc bất hợp pháp như: những đối tượng buôn lậu có thể “ mua” giấy tờ từ cơ sở nuôi đã được cấp phép để chứng minh động vật hoang dã được vận chuyển có nguồn gốc hợp pháp; nhiều cơ sở đã và đang nuôi nhốt động vật hoang dã có nguồn gốc bất hợp pháp trong một thời gian dài trước khi đăng ký với cơ quan chức năng hay nuôi các loài không phải là loài đã được cấp phép nuôi... Trong khi đó, “Chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tế là cơ chế quản lý hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD hiện tại vừa chưa rõ ràng vừa không đủ hiệu quả để ngăn chặn tình trạng nhập lậu, buôn bán ĐVHD bất hợp pháp”.

Phó giám đốc ENV Bùi Thị Hà

“Việc ban hành Danh mục ĐVHD được phép nuôi thương mại và giới hạn hoạt động nuôi thương mại ĐVHD chỉ trong những loài này là một giải pháp đơn giản, hữu hiệu, góp phần định hướng cho người nuôi và tạo điều kiện cho công tác quản lý, từ đó bảo vệ tốt hơn các quần thể loài ĐVHD trong tự nhiên”- bà Hà nhấn mạnh.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Nguyễn Quảng Trường, chuyên gia của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật cũng cho rằng: Để phát triển bền vững nghề gây nuôi động vật hoang dã vì mục đích thương mại cần có quy hoạch hợp lý về vùng nuôi, đối tượng nuôi và quy mô nhân nuôi; có đánh giá và dự báo thị trường; có hướng dẫn kỹ thuật nuôi và đánh giá rủi ro; quản lý và giám sát hiệu quả. Những loài nên đưa vào nuôi thương mại là các loài sinh sản tốt trong điều kiện nuôi nhốt, có hiệu quả kinh tế và không bị đe dọa tuyệt chủng trong tự nhiên.

Thanh Mai, Nguyễn Ngọc

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/phap-luat-va-doi-song/ngan-chan-lo-hong-quan-ly-gay-nuoi-thuong-mai-dong-vat-hoang-da-i300603/